Con người khi còn sống, mỗi việc thiện việc ác mà bản thân làm ra đều được ghi chép lại. Khi mất đi con người xuống âm phủ để luận tội và công đức của người đó dựa vào những việc thiện ác đã làm. Nhiều người vẫn thường gọi âm phủ là ‘cửu tuyền’, người Việt vẫn thường gọi là ‘nơi chín suối’. Vậy vì sao lại có cách gọi này?
Vì sao không gọi là bát tuyền, thập tuyền, mà lại là cửu tuyền. Nguyên lai nguồn gốc của điều này, là có quan hệ với nhận thức của người cổ đại về thế giới.
Ban đầu “cửu tuyền” được gọi là “hoàng tuyền”, tức là suối vàng. Đầu tiên là được ghi chép trong “Tả truyện”. Đó là phần đầu trong câu chuyện “Trịnh Bá khắc Đoạn vu Yên, tức Vua Trịnh đánh bại Đoạn ở đất Yên, thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Ðây là câu chuyện nói về chúa nước Trịnh là Trịnh Trang Công tên thật là Cơ Ngụ Sinh. Ông là một người rất có hiếu với mẹ. Mẹ của ông là bà Khương Thị, vợ của Vua Trịnh Vũ Công. Bà có hai người con. Người lớn là Thái tử Ngụ Sinh, sau lên ngôi là Vua Trang Công. Còn người con kế tên là Cơ Ðoạn. Tuy cả hai đều là con của bà, nhưng bà lại có tính thiên vị.
Trang Công lúc sinh ra bị khó sinh, chân ra trước, làm Khương Thị bị đau đớn và kinh sợ. Bởi vậy đặt tên cho ông là “Ngụ Sinh”, cái tên có nghĩa là khó sinh, sinh ngược.
Kể từ đó, bà cho Ngụ Sinh là đứa con oan gia bất hiếu, vì hành hạ bà đau đớn ngay từ lúc mới sinh. Do đó, mà bà sinh tâm ác cảm với Ngụ Sinh. Ngược lại, bà rất thương yêu nuông chiều Cơ Ðoạn.
Vì có ý muốn cho Ðoạn lên làm Vua, nên bà tìm đủ mọi phương cách thủ đoạn dèm pha hãm hại Ngụ Sinh. Việc hãm hại của bà kể từ khi Ngụ Sinh còn làm Thái tử, cũng như sau khi ông lên làm Vua. Về sau, việc âm mưu hãm hại của bà bị bại lộ. Ngụ Sinh biết được em trai Cơ Ðoạn nổi loạn phản nghịch, nên cử binh đánh dẹp. Cuối cùng Ðoạn phải tự tử.
Ngụ Sinh giận mẹ làm nội ứng cho Cơ Đoạn để giết mình lấy ngôi, bèn sắp đặt Khương Thị tại ấp Dĩnh và thốt lên lời thề chỉ gặp lại mẹ khi nào xuống suối vàng: “Bất chí hoàng tuyền, vô tương kiến dã”, tức “Chẳng phải chốn suối vàng thì chẳng nhìn mặt nhau”.
Đại phu Dĩnh Khảo Thúc can ngăn Ngụ Sinh, khuyên ông nên giữ đạo hiếu với mẹ. Ngụ Sinh hối hận, muốn đón Khương Thị về. Theo lời của Dĩnh Khảo Thúc, ông đào hầm đất, đến chỗ có suối chảy, coi đó là suối vàng, rồi sai người rước Khương Thị tới làm lễ gặp mặt. Hai mẹ con gặp nhau dưới hầm và nối lại tình cảm như trước.
Không ít ghi chép thời Tần, Hán đều nhắc đến “Hoàng tuyền”. Chữ “tuyền” này có thể là do trước đây khi người ta đào giếng đến một độ rất sâu có thể gặp mạch nước suối ngầm. Do đáy giếng có đất bùn nên khi nước chảy vào thì có màu vàng, vì thế mà gọi là “suối vàng”.
Người sau khi chết sẽ được chôn ở dưới lòng đất, mọi người đều nghĩ “âm tào địa phủ” là một nơi rất sâu, vì thế dùng từ “suối vàng” để ví. Nhưng mà chữ “cửu” hàm ý là có liên quan đến khái niệm của người Trung Hoa xưa.
“Cửu”, tức số 9 là số một chữ số lớn nhất, thời cổ đại có nghĩa là “hết sức, cực điểm, đứng đầu”.
Người xưa cho rằng, người ta chết là trở về với cát bụi, chôn dưới lòng đất và phải xuống âm phủ. Mà âm phủ nhất định phải cách mặt đất rất xa, xa đến người bình thường không thể tới. Vậy nên, trước chữ “tuyền” nhất định phải thêm chữ “cửu” để tăng thêm cảm giác sâu xa thần bí.
Những từ như “Cửu tuyền”, hay người Việt thường gọi là “chín suối”, mặc dù chúng ta đã nghe nhiều và trở nên quen thuộc. Tuy nhiên khi tìm hiểu sâu xa thì có thể phát hiện có rất nhiều điều thú vị.
Nguồn gốc của tên gọi “Cửu tuyền” hay “nơi chín suối” là lời nhắc nhở con người phải dùng hiếu đạo để đối đãi với cha mẹ. Cho dù cha mẹ có ghét bỏ thì cũng phải làm tròn chữ hiếu. Cũng giống như trong cuốn “Đệ tử quy” – Phép tắc người con có đoạn:
“Thân ái ngã, hiếu hà nan
Thân tăng ngã, hiếu phương hiền”
Nghĩa là:
“Cha mẹ thương, hiếu đâu khó
Cha mẹ ghét, hiếu mới hay”.
Theo Tinh Hoa Net
Xem thêm: