Tân Thế Kỷ – Hiện không thể truy lần được dấu vết thông tin của những người làm đao phủ đầu tiên trong lịch sử các triều đại, nhưng sử sách lại có nhiều ghi chép về cuộc đời đầy bi thương của người đao phủ cuối cùng thời phong kiến, đó là Đặng Hải Sơn sống vào cuối triều đại nhà Thanh. Nhiều người tò mò về câu chuyện của ông ta…
Nhân sinh tại thế, mỗi người đều cần có một nghề để tồn tại, mưu sinh. Tuy nhiên, chọn nghề nghiệp nào làm kế sinh nhai để vừa “vinh thân phì gia”, tạo phúc ấm cho cháu con dòng tộc; lại vừa khiến cho cõi lòng được an nhiên thanh thản, không vướng không bận, ấy cũng là suy nghĩ, lựa chọn và niềm ước ao của biết bao người… Câu chuyện buồn về người đao phủ cuối cùng của triều đại nhà Thanh: “giết hơn trăm người, đoạn tử tuyệt tông” và câu chuyện hành nghề giết mổ của bác đồ tể ở một vùng quê xứ Việt dưới đây, hẳn sẽ gợi cho chúng ta những suy tư chiêm nghiệm về câu nói “Sinh nghề tử nghiệp” trong cõi nhân sinh đầy biến động này…
Đao phủ cuối cùng của triều đại nhà Thanh: Giết hơn trăm người, đoạn tử tuyệt tông…
Thời Trung Quốc cổ đại có một nghề dựa vào việc hành quyết người ta để nuôi sống gia đình, gọi là ‘đao phủ’. Nhưng nghề này không được mọi người chính thức công nhận, bởi phần lớn xã hội coi nó là công việc dính đầy máu tươi.
Những người làm công việc khốc liệt này sẽ bị tổn âm đức, ngay cả những ai có liên quan đến công việc đó cũng vậy. Người hành nghề này nhìn chung đều có khuôn mặt dữ tợn, trên tay cầm con đao to lớn và âm ám, chém phạm nhân đang quỳ dưới đất. Công việc ghê sợ này chính là của các đao phủ hành pháp. Người có thể đảm nhận công việc này nếu không có sự vững vàng, can đảm thì không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ. Đao phủ có một thói quen mặc nhiên khi chặt đầu tội nhân, đó là, dẫu đao chặt đầu có bị cùn thì họ vẫn phải tiếp tục chặt, không được mài đao bởi vì họ lưu truyền rằng dưới đao có nhiều oan hồn, và việc mài đao sẽ làm tăng thêm tội nghiệt của đao phủ.
Trên thực tế, đao phủ không phải cứ dám giết người là làm được! Họ phải trải qua quá trình huấn luyện nghiêm ngặt để đảm bảo chỉ bằng một nhát đao là có thể kết liễu tính mạng của kẻ tử tù. Do tính chất khốc liệt của công việc, nên nhìn chung, vào những năm cuối đời của các đao phủ rất lẻ loi cô quạnh, tinh thần sa sút, kết cục bi thương.
Hiện không thể truy lần được dấu vết thông tin của những người làm đao phủ đầu tiên trong lịch sử các triều đại, nhưng sử sách có nhiều ghi chép về người đao phủ cuối cùng của thời phong kiến, đó là Đặng Hải Sơn sống vào cuối triều đại nhà Thanh. Nhiều người tò mò về câu chuyện của anh ta… Không có thông tin chi tiết về thời niên thiếu của Đặng Hải Sơn, chỉ biết rằng kể từ khi mới bắt đầu được tuyển dụng vào đội hành pháp quan trường, anh ta đã đảm nhiệm việc làm đao phủ ở Trường Sa. Tương truyền, trong suốt những năm tháng hành nghề, Đặng Hải Sơn đã nhận lệnh hành quyết không dưới 200 tội phạm. Nhìn vào con số như vậy, khiến nhiều người không khỏi rùng mình.
Thuở đó, nghề đao phủ là làm công việc tước đoạt mạng sống của con người, nhưng lại là một nghề có lợi nhuận cao. “Chặt một đầu thưởng 4 lượng bạc, có thể đủ cho người ta ăn tiêu nửa năm. Đáng tiếc, số tiền này không dễ tiêu vì người khác cho rằng đó là tiền không sạch” – Đặng Hải Sơn kể lại như vậy trong những năm cuối đời. Mỗi đao phủ đều có một con đao chuyên dụng để hành hình, con đao phải được phủ bằng vải đỏ để thờ cúng, không thể tùy tiện lấy ra mà chỉ khi thực sự có việc chấp pháp hành hình mới được đem ra sử dụng.
Theo Đặng Hải Sơn kể lại, trước mỗi lần hành quyết, anh ta sẽ uống một bát rượu để củng cố lòng can cảm, sau khi kẻ tử tù bị áp giải lên pháp trường, nghe lệnh xử trảm, thì Đặng Hải Sơn liền vung đao lên trong trạng thái say tê tê… Mỗi khi hành hình xong, anh ta đều nhanh chóng đến nha môn để nhờ các sai nha khác dùng ván tre đập vào người nhằm xua đuổi vận đen. Đặc biệt hơn nữa là những người hành nghề đao phủ khi đi đường vào buổi đêm, dù có ai la mắng cũng không bao giờ được phép quay đầu nhìn lại, nếu không sẽ dễ gặp phải những điều thảm họa. Điều này là quy tắc được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khi Đặng Hải Sơn ‘học thành nghề’, thầy của Đặng Hải Sơn đã từng nói với anh ta rằng: “Giết đến người thứ 99 thì lúc đó cần dừng tay lại”. Điều này có nghĩa rằng công việc đao phủ này không thể làm cả đời, hơn nữa còn có câu nói: “Giết quá trăm người, đoạn tử tuyệt tông”. Đáng tiếc là Đặng Hải Sơn đã không nghe lời của thầy mình, chỉ đến khi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thay thế nhà Thanh và ra lệnh hoàn toàn bãi bỏ hình phạt xử trảm, anh ta mới dừng tay.
Có lẽ ứng nghiệm với lời của người thầy, khi tuổi về già, Đặng Hải Sơn sống rất khổ sở, ông ta không những không có con mà còn thường xuyên gặp ác mộng. Để tiêu trừ tội lỗi của mình, Đặng Hải Sơn đã từng đến chùa để xin xuất gia, nhưng tiếc là không có chùa nào chịu thu nhận ông ta. Vào một ngày tàn của năm 1925, Đặng Hải Sơn – người đao phủ cuối cùng trong lịch sử nhà Thanh, được tìm thấy đã chết trong một túp lều tranh với hình dạng vô cùng thê thảm…
Khác biệt đôi chút với nghề đao phủ vốn đầy tang thương và khắc nghiệt, trong dân gian vốn tồn tại một công việc cũng liên quan tới sát hại sinh linh, đó là nghề đồ tể. Công việc này cũng để lại khá nhiều câu chuyện buồn và dấu ấn nhân quả bi thương. Cũng may, nhân vật chính là bác đồ tể ở làng quê Việt trong câu chuyện dưới đây đã được điểm hóa mà kịp thời buông bỏ con giao giết mổ trước khi quá muộn màng:
Làm người tối kỵ sát sinh, nhớ câu phúc họa do mình tạo ra…
Chuyện kể rằng, ở một làng quê Việt nọ, có một người chuyên hành nghề giết mổ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng…
Hàng ngày, cứ tờ mờ sáng là lúc lão phương trượng bên chùa gõ mõ tụng kinh. Theo thường lệ, khi ấy chú tiểu sẽ thức giấc và gióng một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể tỉnh dậy sửa soạn giết mổ, cho nên bác ta đã quen lấy tiếng chuông chùa làm cữ để bắt đầu một ngày mưu sinh. Cứ như thế, ngày nào cũng đều đặn giống nhau, không bao giờ sai lệch.
Một đêm nọ, nhà sư nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình quỳ xuống vái lạy rồi nói trong nước mắt: “Xin phương trượng cứu mạng! Xin cứu mạng! “
Vị sư nọ bèn hỏi người đàn bà: “A Di Đà Phật! Cứu mạng là cứu thế nào? Bần tăng phải làm gì đây?”
Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy buồn thảm trả lời: “Ngày mai xin phương trượng hãy cho người đánh chuông chậm lại. Như vậy mẹ con chúng tôi xin muôn vàn đội ơn!”
Lão phương trượng giật mình tỉnh giấc, không hiểu sự tình ra sao cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, y như lời báo mộng khẩn cầu của người đàn bà tội nghiệp, ông chỉ lâm râm tụng niệm mà không gõ mõ, cũng không đánh thức chú tiểu dậy gióng chuông.
Lại nói chuyện sáng hôm ấy, bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên cao, tiếng chuông chùa mới bắt đầu gióng lên vang rền và ngân nga mãi làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã xế trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt khi này thì chợ đã vãn người rồi, còn bán chác cho ai! Tức mình vì lỡ mất một buổi làm ăn, bác ta dụi mắt, lật đật chạy sang chùa trách cứ lão phương trượng…
Sau khi điềm nhiên nghe bác đồ tể trách cứ, than vãn xong xuôi, nhà sư trụ trì già bèn đem câu chuyện mình nằm mộng đêm qua kể cho bác đồ tể nghe để phân trần với người hàng xóm vốn tính nóng nảy bộc trực rằng không phải lỗi tại mình.
Bác đồ tể ấm ức lắm, nhưng quả là việc ai người ấy lo, biết trách ai bây giờ, bác ta đành lếch thếch quay trở lại nhà. Nghĩ lại câu chuyện sư trụ trì vừa kể, bác đồ tể thấy nửa tin nửa ngờ, nhân thể đi qua chuồng lợn nhà mình, bác cũng nhón chân ghé mắt nhìn vào xem sao. Ngạc nhiên thay, bác thấy con lợn cái vừa mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó, nay đã đẻ được năm con lợn con, nhìn bầy lợn con mũm mĩm và đẹp như trong tranh vậy! Vừa mừng vừa sợ, bác ta bèn kể cho mọi người biết sự việc lạ lùng này và quả quyết: “Đúng là linh hồn người đàn bà chuyển sinh thành con lợn cái đã tìm cách cứu bầy con của mình khỏi chết”.
Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đến cùng cực, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng với lão phương trượng. Bác đồ tể buồn bã cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ.
Ba năm sau thì người đàn ông đã từng hành nghề giết mổ ấy qua đời. Bốn mươi chín ngày sau khi người hàng xóm mất, vị sư trụ trì nằm chiêm bao thấy bác đồ tể về báo mộng rằng: nhờ có câu chuyện điểm hóa của nhà sư mà bác mới kịp phóng hạ con dao đồ tể, và thoát khỏi cảnh chịu tội đọa đày ngàn năm nơi địa ngục, bác đồ tể chắp tay cảm ơn nhà sư mà khóe mắt rưng rưng, giây lát sau bóng ảnh của người đổ tể tan biến mất, trước mắt vị sư trụ trì già lại hiện lên cảnh tượng một con lợn bị người ta chọc tiết và kêu gào thảm thiết!… vị sư già giật nảy mình và choàng tỉnh dậy!
Sau này, không ai biết linh hồn của bác đồ tể phiêu dạt về nẻo luân hồi nào, nhưng con dao mà bác từng cắm trước sân chùa ngày ấy thì bỗng nhiên hóa thành một loài cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi loài cây đó là cây Huyết Dụ.
Lời kết
Tiếng chuông chùa âm vang ngân nga mà thanh tĩnh vốn được coi là ‘Pháp khí’ để phá mê, để cảnh tỉnh và đánh thức những chúng sinh đang lầm lạc nơi chốn nhân gian tìm về với sự bình an và vĩnh hằng trong Phật Pháp, cũng là tìm về với bản nguyên sinh mệnh của mỗi con người, tránh xa những khổ đau, lỗi lầm nơi nhân thế… Nhưng thật đáng buồn, với bác đồ tể trong câu chuyện trên thì nó chẳng khác gì một chiếc “đồng hồ báo thức” để từng ngày, từng ngày lại một thêm một sinh mệnh bị bác ta xuống tay giết hại.
Xưa nay người ta vẫn coi việc giết hại sinh linh – đặc biệt là việc hại người hoặc giết hại những súc vật lớn là điều tối kỵ. Phật gia có giảng: “Vạn vật hữu linh”, còn trong dân gian lại có câu: “Sinh nghề tử nghiệp”, có người nói chữ “nghiệp” ở đây không chỉ có hàm ý biểu thị nghề nghiệp mà còn có hàm ý là chỉ nghiệp lực (ác nghiệp) mà họ gây ra trong chính cái nghề mà mình đang làm, cách lý giải như vậy xem ra cũng không phải là không có lý!
Giấc mơ của vị hòa thượng và hình ảnh cây Huyết Dụ có màu đỏ như máu với những chiếc lá nhọn hình con dao bầu như một lời cảnh tỉnh thế nhân: làm việc gì cũng cần cân nhắc sao cho ngay chính, có Thiện tâm và đặc biệt là không nên lạm sát các sinh mệnh; Còn kết cục thảm thương, không có hậu của nhân vật Đặng Hải Sơn trong câu chuyện buồn về người đao phủ cuối cùng của triều đại nhà Thanh: “giết hơn trăm người, đoạn tử tuyệt tông”… đã minh chứng một điều rằng: việc sát sinh ấy vốn là điều tối kỵ. Bởi quy luật nhân quả và thiện ác hữu báo vốn luôn hiện hữu trường tồn… Dẫu biết rằng: “Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ” – đại ý: Người ta sống ở trên đời có ai là không có nghề (Nguyễn Công Trứ), nhưng thiết nghĩ mỗi người đều có quyền quyết định lựa chọn công việc và cách hành xử trong công việc của mình, bởi thế việc quy chính lương tâm chưa bao giờ là muộn cả; và thù lao trong mỗi công việc luôn luôn có “cái giá” của nó.
Đường Phong (NTDVN)
*Tài liệu tham khảo:
– Những câu chuyện về người đao phủ cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc (tổng hợp từ nhiều nguồn).
– Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam/Nguyễn Đổng Chi.
– Các tư liệu khác.
Xem thêm: