Bác sĩ Paul Marik và những nghiên cứu sinh của ông trong FLCCC đã đấu tranh cho quyền lợi của bệnh nhân. Tất cả họ đều đã phải trả giá đắt cho việc chăm sóc bệnh nhân và nói lên sự thật.
Phần I trong loạt bài về Tiến sĩ Paul Marik — một vị bác sĩ tuyệt vời bị sa thải và phải rời khỏi chức giáo sư vì ông đã điều trị thành công cho các bệnh nhân COVID-19 bằng một loại thuốc được FDA chấp thuận và vitamin C liều cao.
Ghi chú của tác giả: Bài đăng sau đây được lấy từ cuốn sách Dũng khí để đối mặt với Covid 19: Hạn chế nhập viện và tử vong khi đấu tranh với những công ty dược phẩm sinh học, của John Leake và Peter A. McCullough. MD, MPH.
Bác sĩ Paul Marik là bác sĩ chuyên khoa hồi sức tích cực và bác sĩ McCullough là bác sĩ chuyên khoa tim-thận. Bác sĩ Paul Marik là một người đàn ông 65 tuổi, gốc Nam Phi đã xuất bản hơn 500 bài báo và sách được bình duyệt. Điều đó khiến ông trở thành bác sĩ hồi sức có số lượng sách và báo được xuất bản nhiều thứ hai trong lịch sử y học.
Khi gặp Tiến sĩ Marik, mọi người thường ấn tượng với tầm vóc to lớn của ông. Cách cư xử nhẹ nhàng và chất giọng Nam Phi thanh lịch của ông gợi nhớ đến những nhà thám hiểm người Anh ở thế kỷ 19. Từ những ngày đầu hành nghề, ông đã đặc biệt quan tâm đến việc tìm ra những phương pháp điều trị nhiễm trùng huyết – một phản ứng nghiêm trọng, đe dọa tính mạng của cơ thể khi bị nhiễm trùng.
Ở thế kỷ 21, nhiễm trùng máu vẫn tiếp tục được xem là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Theo CDC, khoảng 1,7 triệu người Mỹ trưởng thành bị bệnh nhiễm trùng huyết mỗi năm, trong đó có khoảng 270.000 người tử vong tại bệnh viện.
Trên toàn cầu, gánh nặng nhiễm trùng huyết ước tính có khoảng 15 đến 19 triệu trường hợp hàng năm, với tỷ lệ tử vong lên tới 60% ở các nước thu nhập thấp.
Bác sĩ Marik biết những báo cáo về phương pháp điều trị nhiễm trùng huyết. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng Vitamin C và Vitamin B1 (thiamine) tiêm tĩnh mạch liều cao mang lại một số lợi ích trong điều trị. Một số nghiên cứu khác cho thấy rằng hydrocortisone có triển vọng trong điều trị nhiễm trùng huyết. Tiến sĩ Marik lý luận rằng việc kết hợp cả ba loại thuốc này có thể khuếch đại lợi ích của chúng. Một vấn đề thường gặp trong y khoa, đó là việc kết hợp các loại thuốc sẽ mang lại nhiều kết quả khác nhau và có thể tạo ra tác dụng hiệp đồng.
Vào năm 2016, bác sĩ Paul Marick và các đồng nghiệp của ông đã thực hiện một nghiên cứu, trong đó họ so sánh 47 bệnh nhân nhiễm trùng huyết được sử dụng liệu trình gồm ba loại thuốc trên với một nhóm đối chứng gồm 47 bệnh nhân được chăm sóc theo phác đồ tiêu chuẩn của nhiễm trùng huyết vào thời điểm đó. Tỷ lệ tử vong của nhóm điều trị là 8,5% so với 40,4% của nhóm chứng – đây một sự khác biệt đáng kinh ngạc. Một số người cho rằng nghiên cứu của ông quá nhỏ và không được chuẩn hóa. Tuy nhiên, phương pháp điều trị này được gọi là “Marik Cocktail” đã được các đơn vị hồi sức trên toàn thế giới áp dụng, đã có những báo cáo về tính hiệu quả của phương pháp này.
Khi COVID-19 xảy ra và đơn vị hồi sức tích cực của bác sĩ Marik tại Bệnh viện Đa khoa Sentara Norfolk tiếp nhận những bệnh nhân đầu tiên, ông quan sát thấy họ có tình trạng viêm phổi và ông nghi ngờ rằng tình trạng này có thể được điều trị bằng corticosteroid.
Ông đã liên hệ với bốn chuyên gia hồi sức khác là Giáo sư Joseph Varon tại Trung tâm Y tế United Memorial ở Houston (vào năm 2020, ông đã làm việc liên tục 268 ngày để điều trị bệnh nhân COVID-19 ở đơn vị ICU của mình); Giáo sư Gianfranco Umberto Meduri tại Trung tâm Khoa học sức khỏe Đại học Tennessee ở Memphis; Giáo sư Jose Iglesias tại Trường Y khoa Hackensack Meridian ở Seton Hall, New Jersey, và Giáo sư Pierre Kory tại Đại học Wisconsin-Madison. Và trong câu chuyện kỳ diệu của về những bác sĩ này, tác giả Michael Capuzzo cho rằng, thật khó có thể tìm được một đội ngũ bác sĩ hồi sức tích cực về bệnh phổi giàu kinh nghiệm và có nhiều kiến thức học thuật hơn họ.
Họ cùng nhau thành lập liên minh Frontline COVID-19 Critical Care Consortium (FLCCC) và bắt tay xây dựng một phác đồ để điều trị cho những bệnh nhân Covid-19 nhập viện.
Họ bắt đầu tập trung vào tình trạng đáp viêm quá mức quan sát được ở nhóm bệnh nhân này, thường được gọi là “cơn bão cytokine”, trong đó cytokine là những protein được hệ thống miễn dịch tạo ra, đây là một đáp ứng miễn dịch quá mức và không phù hợp thường quan sát được ở các bệnh nhiễm vi rút khác, bao gồm cả bệnh cúm có độc lực cao.
Chính tình trạng viêm ở phổi, thận và những cơ quan khác đã khiến bệnh nhân tử vong chứ không phải do bản thân virus. Vì vậy, chìa khóa để điều trị Covid là làm giảm tình trạng viêm này.
Giáo sư Meduri là chuyên gia hàng đầu về liệu pháp corticosteroid trong điều trị bệnh hồi sức. Ông đã tiến hành một đánh giá toàn diện về việc sử dụng corticosteroid đề điều trị SARS-CoV-1, MERS và H1N1 và đã tìm thấy những bằng chứng quan trọng cho thấy loại thuốc này có tác dụng cứu sống bệnh nhân nhờ việc làm giảm phản ứng viêm.
Trong nhiều thập kỷ, corticosteroid methylprednisolone là những loại thuốc tiêu chuẩn để ngăn chặn cơn bão cytokine. Tuy nhiên, bất chấp sự thật rõ ràng này, mọi cơ quan y tế liên bang của Hoa Kỳ đều khuyến cáo không nên sử dụng corticosteroid đề điều trị COVID-19 ngay từ những ngày đầu của đại dịch.
Không giống như những cơ quan trên, FLCCC kết luận rằng cách tốt nhất để điều trị Covid 19 cho những bệnh nhân nhập viện là sự kết hợp giữa Methylprednisolone và axit Ascorbic (Vitamin C). Họ đã bổ sung thêm Thiamine (Vitamin B1) để tối ưu hóa việc sử dụng oxy và tiêu thụ năng lượng của tế bào, đồng thời thêm thuốc chống đông máu Heparin để ngăn ngừa và giúp làm tan các cục máu đông xuất hiện với tần suất cao.
Những loại thuốc này không cần phải thử nghiệm. Methylprednisolone và heparin đã được FDA chấp thuận từ lâu để điều trị tình trạng viêm và đông máu. Vitamin C và B1 là những loại thuốc không cần kê đơn, mặc dù trong bệnh viện, chúng sẽ được tiêm tĩnh mạch liều cao.
Các bác sĩ FLCCC đã đưa ra “Giao thức MATH” cho những bệnh nhân ICU và theo dõi tiến triển của nhóm bệnh nhân này để tiến hành nghiên cứu. Đến cuối tháng 4, họ đã điều trị cho 100 bệnh nhân. Trong số này, 98 bệnh nhân sống sót. Hai bệnh nhân tử vong ở độ tuổi tám mươi và mắc các bệnh mạn tính nặng khác. Không có bệnh nhân nào có thời gian thở máy lâu, phải phụ thuộc vào máy thở, và phải nằm viện lâu.
Trong thời gian này, Tiến sĩ Pierre Kory đã trao đổi hàng ngày với các bác sĩ ICU tại thành phố New York quê hương của ông, nơi ông đã làm việc tại nhiều bệnh viện. Các đồng nghiệp của ông báo cáo rằng họ đã lật ngược tình thế trong khoa ICU ngay khi bắt đầu sử dụng methylprednisolone.
Các bác sĩ ICU ở New Orleans, từng bị ảnh hưởng nặng nề cũng báo cáo kết quả tương tự. Do đó, Kory và các đồng nghiệp đã gửi thư tới Nhà Trắng, CDC và NIH, trình bày những bằng chứng thực tế của họ về hiệu quả của corticosteroid nhưng tất cả những nỗ lực của họ đều vô ích.
Những nỗ lực của Tiến sĩ Kory đã thu hút sự chú ý của Thượng nghị sĩ Ron Johnson của bang Wisconsin, ông là chủ tịch Ủy ban An ninh Nội địa của Thượng viện. Kể từ khi con gái của ông sinh ra với dị tật tim bẩm sinh – đã được điều trị thành công bằng một cuộc phẫu thuật sáng tạo – Thượng nghị sĩ Johnson đã tin rằng nếu công dân phải đối mặt với tình trạng đe dọa tính mạng mà không có phương pháp điều trị nào đã được chứng minh. Họ nên có quyền thử các loại thuốc hoặc phẫu thuật có thể mang lại một số lợi ích, ngay cả khi những phương pháp này chưa được thông qua quy trình phê duyệt thông thường của FDA. Phương pháp ngược lại chính là không làm gì cả và chấp nhận khả năng tử vong cao.
Những người chỉ trích tuyên bố rằng ngoại trừ những loại thuốc và quy trình đã được FDA cho phép, các bác sĩ vô đạo đức sẽ tạo ra hy vọng hão huyền cho bệnh nhân bằng cách cung cấp những phương pháp điều trị khác cho những bệnh nhân đang tuyệt vọng, ngay cả khi có rất ít dữ liệu thử nghiệm chứng minh hiệu quả của chúng. Thượng nghị sĩ Johnson cho rằng lập luận này không thuyết phục và ông đã đưa ra dự luật liên bang của mình vào năm 2017. Một dự luật đồng hành đã được giới thiệu tại Hạ viện, cuối cùng đã được thông qua ở cả hai viện và được Tổng thống Trump ký thành luật vào năm 2018.
Theo lời mời của Thượng nghị sĩ Johnson, Giáo sư Kory đã phát biểu trước Ủy ban An ninh Nội địa Thượng viện vào ngày 6 tháng 5 năm 2020. Phát biểu qua WebEx, Kory nêu thông tin đăng nhập của các bác sĩ FLCCC, và giải thích sự hợp lý khi sử dụng quy trình của họ. Sau đó, ông báo cáo những thành công mà nhóm của ông và các bác sĩ khác đã đạt được khi sử dụng quy trình này.
Đây là một tin tuyệt vời, nhưng kết quả này lại không có được sự hoan nghênh của toàn bộ ngành y tế.
Tuy nhiên, mặc dù FLCCC có những lập luận hợp lý cho liệu pháp của họ và có sự đồng thuận rộng rãi về hiệu quả của các thuốc được sử dụng và thành công thực tiễn khi áp dụng, họ vẫn vấp phải sự phản đối của CDC và NIH.
Những tổ chức đã từ chối thay đổi khuyến nghị không sử dụng corticosteroid để điều trị COVID-19. Trong cả bốn lần, FLCCC đã cố gắng thông báo cho Nhà Trắng về những kết quả thuận lợi của họ, nhưng họ đã không nhận được phản hồi.
(Bản dịch từ The Epoch Times – Đăng lại từ bản tin trực tuyến của đồng tác giả:
John Leake: Ông là nhà văn về tội phạm và dịch giả tự do về lịch sử y tế và pháp y.
Peter A.McCullough: Bác sĩ y khoa – Tiến sĩ McCullough là một bác sĩ nội khoa chuyên khoa tim mạch và là nhà dịch tễ học đang quản lý những trường hợp biến chứng tim mạch do nhiễm vi-rút và những tổn thương xuất hiện sau khi tiêm vắc-xin COVID-19 ở Dallas TX, Hoa Kỳ. Ông có hàng chục ấn phẩm được bình duyệt về các bệnh lý nhiễm trùng, nhiều báo cáo tại Thượng viện Hoa Kỳ và Thượng viện Tiểu bang, và đã có nhiều bình luận về phản ứng y tế đối với cuộc khủng hoảng COVID-19 trên TheHill, America Out Loud, NewsMax và trên kênh FOX NEWS.)
(Theo The Epoch Times – Epoch Health tiếng Anh)
Bản dịch theo NTDVN