Có một lối nghĩ phổ biến rằng người phụ nữ xưa chịu lễ giáo phong kiến, sống cuộc đời khổ cực như nô lệ. Đó là sự thực hay những tuyên truyền làm sai lệch lịch sử? Vậy người phụ nữ thời xưa có vai trò và cuộc sống như thế nào?
Vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ Trung Quốc truyền thống đã bị bóp méo và biến dị đến mức khó mà nhận ra được nữa. Đức hạnh truyền thống của phụ nữ bị dán nhãn là “tập tục phong kiến lỗi thời”. Ngày nay chúng ta chỉ thấy những người phụ nữ với “nữ tính hiện đại”, những người tranh cường hiếu thắng và có một dục vọng mạnh mẽ muốn khống chế người khác.
Chiểu theo học thuyết Âm Dương, nam tính thuộc về dương cương, nữ tính thuộc về âm nhu. Nam và nữ một bên cương một bên nhu, tồn tại tương hỗ cho nhau, để từ đó đạt đến việc cùng tồn tại trong hài hòa. Ngày nay, có không ít đàn ông bị phụ nữ quản thúc, đàn ông mất hết khí thế dương cương, còn phụ nữ thì lại có kiến giải độc lập, khống chế người chồng cả về kinh tế và tinh thần, làm cho gia đình bất hòa, tỷ lệ ly hôn cao, nạn ngoại tình và các vấn đề xã hội theo đó mà phát sinh.
Khi một vấn đề phát sinh, người ta thường chỉ tìm kiếm những lý do ở trên bề mặt. Họ không biết rằng sự chệch khỏi quy phạm đạo đức truyền thống Trung Quốc mới là nguyên nhân gốc rễ của vấn đề.
Vậy, vai trò người phụ nữ trong văn hóa truyền thống thật sự như thế nào, có phải họ phải chịu ức hiếp, khi lập gia đình thì không còn lai vãng xã hội bên ngoài và trở thành vật sở hữu của đàn ông, bị ràng trong quan niệm “trọng nam khinh nữ” và chẳng có tiếng nói trong gia đình,.v..v… như trong tuyên truyền và cách nhìn nhận của chúng ta hôm nay không?
Nếu như chúng ta có thể tĩnh tâm mà tìm hiểu những trang sử được lưu truyền từ ngàn năm qua, hoặc giả tìm kiếm những sự thật khác, thấu hiểu mối quan hệ vợ chồng trong xã hội truyền thống khi xưa, hiểu được chức trách của người vợ đối với gia đình… ắt hẳn chúng ta sẽ có cái nhìn khác.
Kinh Thi có viết:
“Đào chi yêu yêu,
Chước chước kỳ hoa.
Chi tử vu quy,
Nghi kỳ thất gia.”
Dịch thơ:
Đào tơ mơn mởn xinh tươi,
Hoa hồng đơm đặc dưới trời xuân trong.
Hôm nay nàng đã theo chồng,
Nên bề gia thất ấm nồng thuận vui.
(Dịch giả: Tạ Quang Phát)
Từ 4 câu thơ này có thể thấy trên 3000 năm trước cổ nhân đã dùng những ca từ vô cùng chất phác và nhiệt tình để tả quang cảnh thiếu nữ xuất giá theo chồng. Phụ nữ sau khi xuất giá thì ở nhà giúp chồng dạy con trong khi người chồng thì lo gây dựng sự nghiệp bên ngoài, họ đồng cam cộng khổ tương thân tương ái một đời. Vốn dĩ đây là những hình ảnh rất đỗi bình thường và an lạc của cuộc sống trong xã hội phong kiến khi xưa. Tuy nhiên, xã hội ngày nay lại diễn giải sai lệch thành bi kịch bất bình đẳng của người phụ nữ.
Chồng nâng đỡ vợ, vợ trợ giúp chồng
Trong các điển cố xa xưa, mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ quan trọng nhất của con người. “Chu Dịch” viết: “Có trời đất mới có vạn vật, có vạn vật mới có nam nữ, có nam nữ mới có vợ chồng, có vợ chồng mới cha con, có cha con mới có quân thần, có quân thần mới có trên dưới, có trên dưới mới có lễ nghi“. Mối quan hệ vợ chồng có thể gọi là mối quan hệ đầu tiên của con người và cũng là mối quan hệ quan trọng bậc nhất, căn bản nhất của xã hội. Sử Ký viết: “Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ quan trọng trong luân thường đạo lý“.
Sách Trung Dung viết rằng: “Đạo người quân tử khởi đầu từ vợ chồng, đến khi xử lý các mối quan hệ gia đình hoàn mỹ thì sẽ thông đạt được Đạo của trời đất” (Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ, cập kỳ chí dã, sát hồ thiên địa). Ở đây cổ nhân xem mối quan hệ vợ chồng là khởi điểm để người quân tử tu dưỡng bản thân, mà cảnh giới cao thâm nhất của nó lại là sự tương thông chính đạo của trời đất. Vì mối quan hệ vợ chồng là nguồn gốc tạo ra mối quan hệ cha con, huynh đệ tỷ muội và thân tộc, cuối cùng tạo ra mối quan hệ của cả xã hội… nên trong gia tộc, nó là quan trọng nhất. Vợ chồng giữ đạo và bổn phận của mình mới có thể khiến gia đình hài hoà, gia phong đoan chính.
Hơn nữa, mối quan hệ vợ chồng là việc đại sự, liên quan mật thiết đến sự hưng thịnh, tồn vong của quốc gia. Cha con, huynh đệ, vợ chồng, gia đạo mà chính thì quốc gia, thiên hạ mới được an vui. Văn hoá Nho gia xếp mối quan hệ vợ chồng, cha con, quân thần, trưởng ấu, bạn bè… thành 5 đại nhân luân. Cũng như trong lý tưởng “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì tề gia phải ở trước trị quốc. Đạo vợ chồng là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của tề gia. Một khi mối quan hệ vợ chồng đã quan trọng như vậy, cổ nhân làm sao có thể trọng nam khinh nữ cho được?
Vậy cổ nhân định nghĩa về vợ chồng như thế nào? Sách Bạch Hổ Thông viết rằng: “Người chồng nghĩa là người nâng đỡ vợ, người vợ nghĩa là người trợ giúp chồng quản lý gia đình” (Phu giả, phù dã, thê giả, tề dã). Ý nói người chồng trong gia đình đóng vai trò chủ đạo và trung tâm, có trách nhiệm lãnh đạo và hỗ trợ trong gia đình, gánh vác sinh kế và gia phong, trật tự trong gia đình. Còn vợ là người có trách nhiệm tương trợ, đồng đẳng với chồng. Xem vậy thì thấy vợ chồng là một thể thống nhất, đồng lòng lo liệu mọi việc trong gia đình. Ngoài ra vợ cũng được gọi là “Phụ”, nghĩa là “Phục”: phục vụ, quản lý sự vụ gia đình, tức là có trách nhiệm chăm sóc, trông coi người trong nhà. Phụ nữ có chồng thường được gọi với hai tên gọi: Thê và Phụ, có thể hiểu là sự ngầm ám thị trách nhiệm của người phụ nữ trong hôn nhân (thê) và gia đình (phụ).
Phụ nữ làm chủ trong nhà, là tể tướng trong gia đình
Vợ chồng là một thể thống nhất, nhưng nam nữ có sự khác biệt, đặc tính và sở trường hai giới khác nhau, đây cũng chính là cái đạo nhất âm nhất dương. Đàn ông đại biểu cho dương cương, phụ nữ đại biểu cho âm nhu. Cổ nhân căn cứ vào đạo âm dương mà định ra luân lý “Nam tôn nữ ti“, nam chủ đạo bên ngoài, nữ chủ đạo bên trong. Định nghĩa tôn, ti ở đây không thể hiểu đơn giản là cao quý và thấp hèn mà là trí huệ rút ra từ đạo lý trong cuộc sống của trời đất. Thiên thuộc dương ở trên là tôn, ý nói rằng đàn ông làm việc cần phải giống trời, cương trực, mạnh mẽ tự cường. Đất thuộc âm ở dưới được gọi là ti, nghĩa là phụ nữ phải giống như đất, cần trọng đức, bao dung nồng hậu với vạn sự vạn việc. Phúc đức tại mẫu, nữ nhân phải có lòng bao dung, gia đạo mới hưng thịnh.
Trách nhiệm cụ thể của vợ chồng trong cuộc sống liên quan đến bổn phận trong ngoài khác nhau. Phận làm chồng lo liệu việc bên ngoài. Quân vương thì phải tận lực trị quốc để quốc phú, dân cường. Quan lại thì phải thủ trung giữ tín, phụ tá giang sơn. Tướng sĩ thì phải nam chinh bắc phạt, bảo vệ quốc gia. Người dân thì phải sớm tối chuyên cần đánh cá, trồng cây. Phận làm vợ ở nhà thì phải cẩn trọng giữ đạo phụ nữ, giúp chồng dạy con, lo liệu nhà cửa, giữ gìn tài sản, gia quy lễ nghĩa trong gia đình.
Trong cuốn Lễ Ký có viết: “Đàn ông không nói chuyện trong nhà, phụ nữ không nói chuyện ngoài xã hội” (Nam bất ngôn nội, nữ bất ngôn ngoại). Đàn ông không được quá bận tâm việc trong nhà mới có thể chuyên tâm phát triển sự nghiệp bên ngoài. Phụ nữ không được can dự công việc của chồng bên ngoài mới có thể chuyên tâm việc nhà, chăm sóc gia tộc và cũng là để chồng yên tâm làm việc.
Có thể nhiều người cho rằng phụ nữ xưa kia sống như vậy, tất cả là vì chồng mà sống, không có tí giá trị nào cho bản thân. Kỳ thực không phải, vua vì quốc gia mà lao tâm; quan vì quốc kế, dân sinh mà nhọc lòng; bách tính vì gia đình mà cực khổ, có người đàn ông nào sống vì bản thân? Đây chẳng phải hoàn toàn trùng hợp với mỹ đức trong văn hoá truyền thống hay sao? Làm người thì phải biết sống vì người khác, không có vị tư cá nhân. Vả lại phụ nữ so với đàn ông thì mềm mại tinh tế, họ khéo léo, thích hợp chăm lo mọi việc trong nhà, là trái tim của gia tộc.
Cổ nhân thường ví mối quan hệ vợ chồng tựa mối quan hệ quân thần, chồng là chủ gia đình được ví như vương chủ còn vợ là tể tướng trong nhà. Cho nên vai trò người vợ quản lý trong gia đình cũng được gọi là “chủ mẫu”, biểu thị sự bình đẳng nam nữ như nhau, nhận được sự kính trọng của cả gia tộc. Mà dạy con lại cần một người vợ hiền lương thục đức mới có thể dạy bảo ra thế hệ sau: “Con trai quân tử, con gái hiền lương“. Đây lại càng là vấn đề coi trọng vận mệnh quốc gia đại sự.
Cho nên nói có hiền nữ mới có hiền thê, có hiền thê mới có hiền mẫu, có hiền mẫu mới có hiền tử. Có câu: “Đằng sau sự thành công của người đàn ông luôn có bóng dáng người phụ nữ tài ba” là ý như vậy. Khi nam nhân lập đức, lập công, lập tín, lưu danh sử sách, người phụ nữ phía sau lại có tác dụng không gì sánh được đối với việc truyền thừa văn hoá truyền thống, đạo đức.
Như vậy có thể nói người vợ là đại thần quan trọng của người chồng, cũng là chỗ nương tựa trên phương diện ăn mặc của mọi người trong nhà. Người vợ sao có thể không nhận được sự coi trọng của chồng, của gia đình?
Cổ nhân kỳ vọng rất lớn vào vai trò của người vợ trong gia đình. Giáo dục nữ đức chính là vấn đề bắt buộc trong cuộc đời nữ nhân. Thời cổ đại, thiếu nữ 10 tuổi là bắt đầu cần phải học cử chỉ, hành vi giống như một người phụ nữ trưởng thành có gia đình: trồng dâu, nuôi tằm, dệt sợi, cũng như kỹ năng may vá, lễ tiết và một số quy tắc tế thực, vị trí sắp đặt. Trước khi kết hôn 3 tháng còn cần được huấn luyện nghiêm ngặt, hiểu rõ công dung ngôn hạnh. Học xong còn cần phải thông qua các phương thức kiểm tra của tổ tiên, biểu thị đức hạnh nhu thuận đã đầy đủ, có thể xuất giá theo chồng làm phụ nữ chân chính.
Phụ nữ ngoài giáo dục nữ đức, ngôn truyền thân giáo ra, trong lịch sử còn xuất hiện rất nhiều sách quy phạm đạo đức, ngôn hạnh của phụ nữ, tiêu biểu như: Liệt Nữ Truyện, Nữ Tứ Thư. Có thể nhiều người cho rằng như vậy là trói buộc và đối xử phân biệt với nữ nhân, nhưng trên thực tế, cổ nhân cho rằng mối quan hệ vợ chồng lý tưởng phải là “Phu nghĩa, phụ thuận” (Là chồng thì phải dùng ân, dùng nghĩa để đối đãi với vợ, là vợ thì phải thuận theo chồng).
Tuân Tử nhìn nhận rằng đàn ông cần làm được: “Dốc sức lập công danh nhưng không phóng túng, hết sức gần gũi vợ nhưng biết phân biệt giới hạn” (Trí công nhi bất lưu, trí lâm nhi bất biện). Nghĩa là phải tận lực tạo dựng công danh nhưng không được phóng túng dâm loạn, tận lực gần gũi thân thiết với vợ nhưng lại cần có giới hạn nhất định. Đàn ông làm được chọn chữ nghĩa, phụ nữ tự khắc cũng sẽ phu xướng phụ tòng, trở thành vợ hiền dâu thảo, chu đáo dịu dàng.
Đọc sách thánh hiền lưu lại, chúng ta không khỏi giật mình phát hiện trong văn hoá truyền thống và đạo đức, đạo vợ chồng chính là điểm khởi đầu quan trọng trong mối các quan hệ từ gia đình tới quốc gia. Vai trò của người vợ trong gia đình lại là điều không thể thay thế. Nhà có vợ chăm sóc đó chính là phúc phận lớn nhất trong gia đình. Sự coi trọng và yêu cầu đối với phụ nữ trong văn hoá truyền thống có cũng có thể khiến phụ nữ ngày nay phải có cái nhìn sâu sắc hơn đối với trách nhiệm và bổn phận của mình.
Phần 1: Hiểu đúng vai trò người phụ nữ xưa (P1) – Nữ đức tu thân
Phần 2. Hiểu đúng vai trò phụ nữ xưa (P2) – Tam tòng tứ đức đã bị diễn giải sai thế nào?
Nghi Văn (t.h)
Nguồn tổng hợp