Tân Thế Kỷ – Làm quân vương của các thời đại mà nói, thì kỳ thực rất nhiều người đều muốn làm minh quân, rất ít người muốn làm hôn quân. Nhưng làm thế nào để làm một minh quân, thì cần phải có trí huệ, khí phách, hướng thiện cho dân. Cùng xem người xưa luận về đạo của minh quân và vị quân Vương vĩ đại của đất Việt – Lý Công Uẩn.
Ngụy Trưng nói về Đạo của minh quân
Năm Trinh Quán thứ hai, Đường Thái Tông hỏi Ngụy Trưng: “Thế nào gọi là quân chủ thánh minh, thế nào gọi là quân chủ hôn ám?” Ngụy Trưng trả lời: “Quân chủ sở dĩ có thể trở thành thánh minh, là vì có thể lắng nghe lời nói của các bên; còn quân chủ mà hôn ám, là bởi vì chỉ nghe và tin một bên. Trong “Thi Kinh” có nói: “Cổ nhân đã từng nói thế này, cần phải hỏi ý kiến những người cắt cỏ, đốn củi”.
Trước đây Đường Nghiêu, Ngu Thuấn trị vì thiên hạ, mở rộng cửa đón người tứ phương, chiêu nạp hiền tài, mở rộng phạm vi nghe nhìn, lý giải được tình huống của các phương diện, nghe được ý kiến từ các phương diện. Nhờ đó mà quân chủ thánh minh có thể biết hết mọi thứ, do vậy những người xấu như Cộng Công, Cổn không thể che mắt họ, những kẻ hoa ngôn xảo ngữ không cách nào mê hoặc họ. Ngược lại Tần Nhị Thế lại ở trong cung sâu, cách biệt với hiền thần, xa rời bách tính, chỉ nghe lời Triệu Cao, đến khi thiên hạ đại loạn, bách tính làm phản thì ông ta vẫn không biết. Lương Vũ Đế chỉ biết tin lời Chu Dị, đến khi Hầu Cảnh hưng binh làm loạn đem binh vây hãm tấn công đô thành, thì ông vẫn không biết. Tùy Dạng Đế chỉ biết tin Ngu Thế Cơ, đến khi các lộ binh mã phản Tùy tấn công cướp bóc thành ấp, thì ông vẫn không biết. Từ đó có thể thấy, chỉ khi quân chủ thông qua việc nghe các kiến nghị trên nhiều phương diện của quần thần và chọn ra để dùng, thì mới có thể khiến các đại thần chức tước cao không thể dối trên lừa dưới, như vậy tình hình bên dưới nhất định có thể được truyền đạt lên trên.” Thái Tông rất tán thưởng lời của ông ấy. (Trích từ “Trinh Quán chính yếu – Luận quân đạo”)
Lời của Ngụy Trưng được nói trên đây, quả thực là có ảnh hưởng rất lớn đến hậu nhân. Chúng ta biết “Khang Hy vi hành”, Càn Long du Giang Nam, và “Gia Khánh vi hành” đều là các ví dụ thực tế. Để không bị người khác mê hoặc và dẫn đi sai đường, nên họ đã đích thân đến nơi dân gian để nhìn tận mắt. Chính vì như vậy, mà Đại Thanh mới có thể kéo dài 300 năm. Đại Thanh có thể trị vì quốc gia lâu dài như vậy quả thực là rất không dễ dàng.
Đối với rất nhiều lãnh đạo lớn của các đơn vị hoặc lãnh đạo của một ban ngành nào đó, nếu các vị ấy có thể liên lạc nhiều với thuộc hạ, thì đều là có chỗ tốt.
Trong cuộc sống chúng ta làm việc gì cũng nên như vậy, không thể chỉ nghe và tin một bên. Cho dù về vấn đề một gia đình có thể hòa thuận hay không, cũng có liên quan đến việc này. Từ đó mà xét thì điều mà Ngụy Trưng nói chính là một cái lý phổ biến ở nhân gian, thích hợp ứng dụng đối với các tất cả các vấn đề làm người, làm việc, làm quan, làm hoàng đế.
Lý Công Uẩn, quân vương vĩ đại, khai sáng nghìn năm hưng thịnh nước Nam
Lý Công Uẩn là vị hoàng đế của triều đại chính thống lâu dài đầu tiên của nước Đại Việt thống nhất. Ông xuất thân từ cửa chùa, là người khai vận cho triều Lý, được lịch sử nhắc đến như một vị minh quân đáng kính, tràn đầy lòng nhân từ. Cuộc đời ông ẩn chứa đầy màu sắc huyền bí, thú vị. Hãy cùng chúng tôi lần giở lại trang sử cũ về vị hoàng đế đặc biệt này.
Một bậc thánh nhân cai trị thiên hạ không những ân đức tưới khắp quốc gia bởi lòng nhân nghĩa của mình mà còn dùng võ công để an định xã tắc, chấn nhiếp ngoại địch. Lý Thái Tổ chính là một ví dụ sinh động nhất về một thời đại hiếm có mà văn trị và võ đức đều đạt đến toàn thịnh. Quân đội Đại Việt thời Lý quả thực là một đạo quân hùng mạnh, thiện chiến, lập được những chiến công đầy hiển hách.
Thân là đệ tử đích truyền của Phật môn, Lý Công Uẩn đã lãnh hội hết những tài năng siêu việt của Thiền Sư Vạn Hạnh, thiền phái Diệt Hỷ, một môn phái tu luyện bí truyền nghìn năm với nội ngoại kiêm tu (vừa luyện võ công, vừa tu nội thiền định). Nguồn gốc bài U Linh Thương pháp này cũng khá ly kỳ.
Tương truyền rằng thời bấy giờ, các thế lực phản loạn nổi lên khắp nơi, dân chúng lầm than, khổ sở. Lý Công Uẩn nhiều phen đích thân đi dẹp loạn. Nhưng do địa hình đất nước núi rừng thâm u, tịch mịch, các trận chiến thường bố trí vào lúc chạng vạng nên với những bài thương thông thường, khả năng đánh tan quân phiến loạn rất thấp.
Bởi vậy, ông bèn sáng tạo ra bài thảo U Linh Thương, rồi tập cho binh lính. Điểm độc đáo của U Linh Thương là có tầm sát thương cao, đường thương đâm thẳng, trực diện với kình lực lớn, kết hợp các động tác uyển chuyển, nhu cương hòa điệu… thích hợp với lối đánh áp sát cận chiến, phù hợp với thể hình thấp bé của đa số binh sĩ triều Lý thời bấy giờ.
Những đạo quân bách chiến bách thắng khiến ngoại bang kinh sợ
Bản lĩnh văn võ cao cường của nhà vua khai quốc này đã tạo nên một quân đội nhà Lý bách chiến bách thắng nổi danh trong lịch sử, mà chiến công sau là minh chứng rõ nét nhất. Sử chép: “Giáp Dần, [Thuận Thiên] năm thứ 5 [1014], mùa xuân, tháng giêng, tướng của người Man là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người Man vào cướp, đóng đồn ở bến Kim Hoa, dàn quân đóng trại gọi là trại Ngũ Hoa.
Châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vinh đem việc tâu lên. Vua sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém đầu kể hàng vạn, bắt sống được quân lính và ngựa không kể xiết. Xuống chiếu cho viên ngoại lang là Phùng Chân và Lý Thạc đem một trăm con ngựa bắt được của người Man sang biếu nhà Tống. Vua Tống xuống chiếu cho quan sở tại sai sứ thần đón tiếp, cùng đi đến cửa khuyết, mọi khoản cung đốn dọc đường đều được chu cấp đầy đủ. Khi đến, vua Tống gọi bọn Chân vào ra mắt ở điện Sùng Đức, ban cho mũ, đai, đồ dùng, tiền bạc theo thứ bậc khác nhau”.
Ngay khi nhà Lý vừa lập quốc, chắc chắn đã trở thành một cái gai trong mắt nhà Tống vốn đã từng coi nước ta như thuộc địa. Đoàn Kính Chí trong đoạn sử trên chính là đại tướng quân của nước Đại Lý họ Đoàn (nổi tiếng được thần thoại hóa trong truyên Kim Dung). Đây là một chư hầu khá mạnh của nhà Tống, được sự đồng ý ngầm của vua Tống mà dám đem 200.000 quân (đạo quân khổng lồ đủ để chiếm một quốc gia ) sang xâm lấn nước ta.
Nhưng không may cho họ, tuy vừa lập quốc và rất nhân từ nhưng Lý Thái Tổ lại không phải là ông vua mềm yếu, thậm chí còn là vị quân vương dũng mãnh với võ công hạng nhất. Chỉ cần một người em trai ông (Dực Thánh Vương) mà cũng dẹp tan quân giặc thì có thế thấy sức mạnh quân đội nhà Lý đáng sợ như thế nào.
Nhưng có một chuyện rất đặc biệt là, mặc dù chiến thắng vang dội nhưng Lý Thái Tổ không hề kiêu ngạo mà lại đem 100 con ngựa bắt được dâng vua Tống. Đó là một cách thức ngoại giao khôn ngoan, vừa thể hiện hòa khí với nước lớn mà lại kín đáo phô diễn cái uy dũng của quân đội mình, răn đe bất kỳ cái đầu nóng nào muốn có ý đồ với Đại Việt. Quả thật là một biện pháp hoàn hảo để giữ vẹn bờ cõi vậy. Đây chính là cách mà Thánh nhân trị quốc theo nhân nghĩa, đúng với chuẩn tắc “Nhân giả vô địch”.
Ngoài nhân nghĩa để nhiếp phục thiên hạ ra thì có một điểm nữa giúp Lý Thái Tổ có thể trở thành người khai vận quốc tộ lâu dài hơn 200 năm của nhà Lý. Đó chính là Thuận Thiên hành Đạo, cai trị thuận ý trời, không đi sang cực đoan và không làm điều bạo ngược.
Sử chép: “Nhâm Tý, [Thuận Thiên] năm thứ 3 [1012], vua thân đi đánh Diễn Châu. Khi về đến Vũng Biện gặp lúc trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội, vua đốt hương khấn trời rằng: “Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét”. Khấn xong, gió sấm đều yên lặng”.
Thân là Hoàng đế lãnh quân viễn chinh thì việc lạm sát chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhưng có thể thành khẩn nhận lỗi của mình với Trời Đất để mong quân sĩ được bảo toàn thì cũng là hiếm thấy vậy. Chính vì lòng nhân đó, sự thành tâm đó mà Thái Tổ có được thiên hạ lâu dài mà truyền cho con cháu vậy.
Sử thần Ngô Sĩ Liên có nhận xét rất hay như sau: “Vua Thang gặp tai nạn hạn hán, lấy sáu việc tự trách mình mà mưa xuống ngay. Nay vua gặp nạn gió sấm, lấy việc đánh dẹp tự trách mình mà gió bão ngừng ngay. Trời và người cảm ứng nhau rất nhỏ nhạy, ảnh hưởng rất chóng, ai bảo là trong chỗ tối tăm mặt trời không soi đến ta mà dám dối trời chăng?”.
Lời kết
Khổng Tử có dạy: “Thành ý, chính tâm, tu thân, tề Gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Quả thật muốn làm nên đại nghiệp lưu danh thiên cổ (bình thiên hạ) thì đều phải bắt nguồn từ việc tu dưỡng bản thân của người lãnh đạo. Thành ý, chính tâm chỉ có thể đạt được khi tấm lòng nhân từ to lớn, lòng yêu thương, thương xót với dân chúng của bậc Thánh nhân thể hiện ra mà thôi.
Xem thêm: