Trong Hồng Lâu Mộng, Giả mẫu vấn búi tóc tròn trên đỉnh đầu, trên búi tóc là chiếc trâm vàng sáng lấp lánh, trước trán là chiếc băng đô thêu hoa vô cùng tinh tế, lưng thắt dây đai thêu hoa, mặc áo khoác dài, rất đoan trang.
Người xưa tại sao lại trang sức như thế này? Điều này có gì khác với y phục hở hang và nhiều chỗ hở của người hiện nay? Chúng ta tìm lời giải đáp từ những hình vẽ trang sức trên đầu, đai lưng, áo khoác dài, váy dài trong bức tranh dưới đây.
Mũ phốc đầu và trâm hoa
Mũ phốc đầu khởi nguồn từ thời Đông Hán, thời Bắc Chu chính thức có tên là phốc đầu. Đến thời Tùy Đường, nó trở thành chiếc mũ mà mọi tầng lớp xã hội yêu thích, từ vương công quý tộc đến bách tính lê dân, đều dùng mũ phốc đầu như một trang phục hàng ngày của mình, nam nữ đều có thể đội được.
Sách Trung Hoa Cổ Kim Chú có ghi chép: “Mũ phốc đầu tên gốc là thượng cân, cũng có tên là chiết thượng cân, nhưng dùng 3 thước lụa đen để quấn tóc phía sau, là trang phục thường ngày của người dân. Sau đó Võ Đế nhà Hậu Chu cắt thành 4 chân, đặt tên là phốc đầu. Đến thời Đường, Thị trung Mã Chu đổi dùng lụa the thay lụa thô, lại thêm hình tượng Lưỡng nghi ở trước và sau, hai bên mỗi bên có 3 túm, tượng trưng Tam tài, bá quan và sĩ tử, thứ dân dùng làm trang phục hàng ngày”.
Mũ phốc đầu là người xưa căn cứ theo âm dương ngũ hành, phỏng theo Tam tài Thiên – Địa – Nhân mà chế tạo thành. Trời có biến hóa âm dương ngày đêm, tứ thời nóng lạnh, người có lục phủ ngũ tạng, khí huyết vận hành 12 kinh mạch âm dương và kỳ kinh bát mạch, hư thực thịnh suy. Trời tròn đất vuông, con người đầu tròn, chân vuông, để ứng với Đạo của Trời đất, làm việc chân chính. Căn cứ theo quy luật Trời đất âm dương tứ thời, ít suy tư, tiết chế dục vọng, cẩn thận hành sự, ức chế tình cảm, dưỡng sinh dưỡng đức.
Trâm hoa tượng trương cát tường phú quý, hỷ khánh, cảm ân. Thời cổ đại, chỉ khi kết thúc các hoạt động như các lễ lớn, lễ tế Trời, các quan trở về cung điện thì đội trâm hoa, để tạ ân của Trời đất. Còn có ngày lễ, khi kết thúc tiệc mừng thọ, hoàng đế ban yến tiệc, ban y phục, ban tước quan, và ban tiến sĩ mới, yến nghe tin mừng, thì đội trâm hoa.
Phần Dư Phục Chí trong Tống Sử có ghi chép: “Mũ phốc đầu, trâm hoa, gọi là đội trâm. Khi dự lễ Trung hưng, tế Trời, Minh đường, lễ xong trở về cung, các quan lại và thị tùng đều đội trâm hoa. Ngày cung kính tạ ơn Trời đất cũng như vậy”.
Sĩ đại phu thời Đường đa phần đều chuộng đội trâm hoa. Có câu chuyện “4 tể tướng đội trâm hoa” lưu truyền khắp thiên hạ. Chuyện kể rằng, bốn người Hàn Kỳ, Vương Khuê, Vương An Thạch và Trần Thăng cùng một thời gian, cùng một địa điểm, đều đội trâm hoa giống nhau. Sau này cả bốn người lần lượt làm tể tướng. Chú rể đời Tống cũng có tập tục đội trâm hoa. Phần Hôn Lễ trong Thư Nghi của Tư Mã Quang có viết: “Tập tục chú rể mới đội hoa thắng, che trên đầu, mất dung mạo của trượng phu.”
Ngoài ra, mũ phốc đầu, trâm hoa, băng đô trán còn có công dụng khác mà ít người biết đến, đó là bảo vệ huyệt bách hội trên đầu không bị phong hàn. Đông y giảng: “Đầu là nơi hội tụ của các khí dương, còn gọi là tủy hải”. Tủy hải không đủ thì đầu quay cuồng tai ù, cổ tê mắt hoa, mắt không nhìn rõ, trễ nải nằm dài. Thái tử nước Quắc bỗng hôn mê bất tỉnh, Biển Thước châm cứu huyệt bách hội, khiến thái tử cải tử hoàn sinh.
Đai thắt lưng
Chúng ta thấy nam nữ trong hình vẽ, phần eo đều buộc một cái đai, vị trí thắt đai chính là vị trí đới mạch tuần hành của thân thể. “Đới mạch khởi đầu từ vị trí sườn dưới, vòng quanh thân một vòng, phía trước rủ xuống như đai, buộc những mạch này, khiến trên dưới thường hằng, muốn quản thúc nó thì buộc dây đai”. Đới mạch chủ yếu khởi tác dụng ước thúc tất cả các kinh mạch chiều dọc vận hành có quy luật.
“Nạn kinh” có viết: “Thắt đai là để trừ bệnh, lăn tăn như ngồi trong nước. Mạch thái xung và mạch nhâm là biển của kinh mạch… Mạch nhâm là nơi phụ nữ dưỡng thai. Mạch đốc là biển đốc thúc dẫn dắt kinh mạch phụ nữ. Ba mạch xung, nhâm, đốc cùng khởi điểm nhưng đường đi khác nhau, cùng một nguồn mà ba chi nhánh, đều là lạc dẫn mạch.”
“Phụ khoa ngọc xích” nói rằng, thắt đai dùng đai ngũ sắc. Chỉ ra rằng, phóng túng dục vọng, tổn hại thận và gây ra bệnh dưới đai. Ngũ sắc lần lượt là Can chủ màu xanh lục, Tâm chủ màu đỏ, Tỳ chủ màu vàng, Phế chủ màu trắng, Thận chủ màu đen.
Thất tình (7 trạng thái tâm trạng) của con người nếu không được điều tiết, phóng túng dục vọng, hành động bừa bãi, đới mạch sẽ ước thúc vô lực, khí mạch thiếu hụt, thận tổn thương, tủy khô, lưng cứng không thể co duỗi, hai chân nặng nề, khó đi lại.
“Biển Thước – Tâm thư” ghi chép, việc phòng the lúc mệt nhọc mà thận tổn hại, thì sẽ bị trúng phong (đột quỵ), bị bệnh lậu, dương vật chảy mủ, thận mệt nhọc, tứ chi thường lạnh, bụng đau, đi ngoài ra máu, xương cốt héo hon, đau lưng vô lực, và các chứng bệnh dưới đai lưng của phụ nữ.
Do đó, bậc trí tuệ dưỡng sinh thì thuận theo sự biến hóa nóng lạnh của bốn mùa, tiết chế thất tình lục dục, chính khí giữ bên trong, thì tà bên ngoài không vào được, nên trường sinh.
Áo khoác dài và váy dài
Chúng ta thấy trong hình vẽ, áo khoác dài của đàn ông dài quá đầu gối cho đến mắt cá chân, chân đi giày da cao cổ, hiên ngang uy vũ. Váy dài của phụ nữ quét đất, dáng vẻ phiêu dật. Tại sao người xưa mặc áo khoác dài, váy dài?
Mọi người đều biết, thân thể người có 12 kinh mạch và kỳ kinh bát mạch. Kỳ kinh bát mạch có mạch nhâm, mạch đốc, mạch đới, mạch xung, mạch âm duy, mạch dương duy, mạch âm khiêu, mạch dương khiêu. Tác dụng của kỳ kinh bát mạch là chứa đựng dùng khi không đủ, và tích trữ khí thừa.
“Nạn kinh – 28 nạn” có viết: “Âm duy, dương duy, duy lạc ở thân, tích chứa, nên không thể chảy quanh khắp thân để tưới cho các kinh được. Thế nên dương duy khởi nguồn ở nơi hội tụ các khí dương, âm duy khởi nguồn ở nơi các khí âm giao nhau”.
Người xưa ví kỳ kinh bát mạch như kênh rạch và hồ biển. Khi khí huyết cơ thể thịnh, nó được tồn trữ ở kỳ kinh bát mạch, khi khí huyết cơ thể suy nhược, thì cần khí huyết của kỳ kinh bát mạch bổ sung. Việc dự trữ và tưới này đều cần mạch âm duy và mạch dương duy để duy trì. Mạch âm duy, mạch dương duy, mạch âm khiêu, mạch dương khiêu đều khởi nguồn từ chỗ khớp mắt cá chân. Thế nên áo khoác dài và váy dài khởi tác dụng đê chắn, bảo vệ khí huyết trong thân thể được tồn trữ dư, để có nguồn tưới.
Trang phục biến dị có hại sức khỏe
Chúng ta hiểu rõ trang phục của người xưa, từng cái nhỏ nhặt trong cuộc sống đều bao hàm đạo dưỡng sinh dưỡng tính. Vậy ăn mặc của mọi người ngày nay có những chỗ nào trái với đạo dưỡng sinh?
Ngày nay, bất kể là dạo phố hay đi trên đường, chúng ta đều thấy nam nữ ăn mặc y phục có những lỗ thủng. Mùa hè ăn mặc hở vai lưng, hở bụng, quần sooc hở đùi. Có người mặc quần trễ đũng không thắt lưng, mùa đông hở mu bàn tay, hở mắt cá chân. Có người đầu bù tóc xõa. Những kiểu ăn mặc này người xưa coi là y phục mũ mão bất chính, dễ chiêu mời tà, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe thân thể. Bởi vì thân thể người có rất nhiều huyệt vị quan trọng phân bố ở các vị trí như trên đầu, cổ, vai, lưng, khớp gối, mắt cá chân… Nếu thường xuyên để hở những vị trí này thì sẽ khiến dương khí trong thân thể bị lọt ra ngoài, hàn tà xâm nhập, làm tắc khiếu huyệt, xâm hại tạng phủ.
Người xưa ăn mặc là để bảo vệ mình không bị lục dâm ngoại tà (phong, hàn, táo, thấp, thử) xâm nhập. Ngoài việc đem lại cảm giác mỹ quan ra, trang phục xưa còn khiến người ta suy nghĩ vô tà, tâm sinh kính ý. Trang phục ngày nay thì hoàn toàn ngược lại, hoàn toàn để hở hết những bộ phận cần bảo vệ nhất của thân thể, dẫn những thứ tà đến xâm nhập. Thế nên người xưa 50 tuổi mới bị đau vai, nhưng người ngày nay mới ngoài 20 tuổi đã bị rồi. Hơn nữa nó còn khiến người ta trông mà suy nghĩ bậy bạ, sinh tà niệm, đối với người đối với mình đều không có lợi.
Nói đến đây, sắp tới là Tết Trung Nguyên, Quỷ môn mở. Trước kia người già thường căn dặn người nhà rằng, quần áo ban đêm không được phơi bên ngoài, nhất là quần áo trẻ em, để tránh những thứ như loài quỷ bám lên quần áo, không tốt cho con người. Nếu có bạn đang sử dụng những đồ dùng như quần áo, giầy dép, mũ, túi, đồ trang sức quỷ quái, hình đầu lâu… thì tốt nhất là chớ dùng. Bởi vì quỷ trông thấy đồng loại sẽ dễ cộng hưởng, không tốt lành.
Tài liệu tham khảo:
- “Châm cứu Giáp Ất kinh”
- “Hoàng Đế nội kinh – Linh Khu”
- “Nạn kinh”
- “Truyền thanh chủ nữ khoa”
- “Kinh huyệt thích dịch giáo trình”
- “Biển Thước – Tâm thư”
- “Tống sử”
- “Nho môn sự thân”