spot_img
19 C
Vietnam
Thứ hai,25 Tháng mười một
spot_img

 Ý nghĩa của việc “Thần dùng đất bùn tạo ra con người” là gì?

987 700x366 1 700x366 1 400x209 1
“Thần dùng đất bùn tạo ra con người” – Ảnh: DKN

Tân Thế Kỷ – Có rất nhiều quốc gia và dân tộc trên thế giới từ đời này qua đời khác đã lưu truyền một câu chuyện truyền thuyết cổ xưa về “Thần dùng đất bùn tạo ra con người”. Ở Trung Quốc có câu chuyện Nữ Oa dùng bùn đất tạo ra con người; ở phương Tây lại có câu chuyện Thượng Đế Jehovah (Giê-hô-va) dùng bùn đất tạo ra con người; trong các dân tộc thiểu số ở Châu Phi, Nam Mỹ, Úc… cũng đều có truyền thuyết về Thần dùng đất bùn tạo ra con người, đây là một ký ức chung của rất nhiều dân tộc khác nhau.

Vào thời cổ đại, tổ tiên loài người phân bố trên các lục địa khác nhau trên Trái đất, hoàn cảnh môi trường và trạng thái sinh sống khác xa so với chúng ta ngày nay. Thời đó không có điện thoại di động, không có Internet, không có phương tiện giao thông hiện đại như máy bay và đường sắt cao tốc; núi cao, đại dương, sa mạc, đầm lầy và rừng rậm khiến cho tổ tiên chúng ta bị cô lập với nhau, không trao đổi được tin tức. Vậy thì tại sao tổ tiên của các dân tộc lại rất nhất quán khi nói về nguồn gốc loài người như vậy? Có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên chăng? Và tại sao tổ tiên của chúng ta lại coi truyền thuyết này là gốc rễ của sinh mệnh, nó vượt qua không gian và thời gian rộng lớn, truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, bây giờ truyền lại cho bạn và tôi?

Đáng tiếc là, trải qua bao thiên biến vạn hóa của lịch sử, thời gian và không gian, niềm tin vào Thần của nhân loại không ngừng suy giảm, khiến con người ngày càng ít tin vào câu chuyện truyền thuyết cổ xưa “Thần dùng đất bùn tạo ra con người” nữa. Khoảng cách thời gian và không gian dài đằng đẵng đã làm mờ nhạt đi ký ức của con người.

Kể từ khi con người bước vào thời cận đại (tôn giáo gọi là thời mạt thế) đến nay, thuyết vô thần (thuyết duy vật) trực tiếp phủ nhận sự tồn tại của Thần; khoa học hiện đại (khoa học thực chứng) lại lên tiếng phụ họa cho thuyết vô thần, nó nói rằng Thần không tồn tại. Ở Trung Quốc Đại lục, khoa học đã trở thành cây gậy trong tay ĐCSTQ để đả kích niềm tin với Thần; đặc biệt là dưới sự dẫn dắt sai lầm của “Thuyết tiến hóa” Darwin, niềm tin của con người vào câu chuyện “Thần dùng đất bùn tạo ra con người” ngày càng mai một.

Vậy, rốt cuộc câu chuyện “Thần dùng đất bùn tạo ra con người” là như thế nào? Sau đây bài viết sẽ chứng minh luận điểm này.

Luận bàn về sự tồn tại của Thần

Để làm rõ chuyện “Thần dùng đất bùn tạo ra con người”, câu hỏi đầu tiên cần trả lời là: Thần có tồn tại hay không?

“Thần” là gì? Từ xa xưa đến nay, ở các quốc gia và dân tộc khác nhau trên thế giới, người ta có nhiều nhận thức khác nhau về Thần, những nhận thức này đều công nhận rằng Thần là sinh mệnh cao cấp có trí huệ và năng lực cao siêu vượt xa con người.

Than Phat nhin nhan tam Dau la ngoi chua thieng nhat cua moi chung ta 1 3
Thần là sinh mệnh cao cấp có trí huệ và năng lực cao siêu vượt xa con người – Ảnh: Internet

Trong thời kỳ văn minh của nhân loại chúng ta lần này, gần như cùng vào thời kỳ lịch sử hơn 2.000 năm trước, ở phương đông và phương tây đã đồng thời xuất hiện mấy vị Đại Giác Giả (Thần). Phương Đông xuất hiện Phật Thích Ca Mâu Ni và Lão Tử, phương Tây xuất hiện Chúa Jesus.

Phật Thích Ca Mâu Ni có thể nhìn thấy ba nghìn thế giới trong một hạt cát, thấy những điều mà người thường không thấy, ông là Thần. Lão Tử nói được rõ ràng những đạo lý mà thế nhân không thể diễn tả được, cảm thấy huyền hoặc, nói những lời người thường không thể nói, ông là Thần. Chúa Jesus bị đóng đinh chết trên thập tự giá ba ngày sau đã phục sinh, hiển hiện rất nhiều Thần tích, những việc mà con người không thể làm được, ông cũng là Thần. Họ là những vị Thần vĩ đại gánh vác sứ mệnh của Trời, từ thiên thượng xuống thế gian truyền bá thiên lý khắp cõi trần, giúp lòng người hướng thiện, lưu lại cho nhân loại nền văn hóa tu luyện, trải đường cho nhân loại để có thể được Sáng Thế Chủ cứu độ vào thời mạt thế.

Mỗi một thời kỳ văn minh của nhân loại đều có Thần Phật gánh vác thiên mệnh từ thiên quốc hạ thế truyền Pháp giảng Đạo. Phật Thích Ca Mâu Ni năm đó từng nói, trước ông còn có sáu vị Phật nguyên thủy tồn tại, có nghĩa là trước ông đã từng có sáu vị Phật hạ thế truyền Pháp. Nền văn minh lần này của nhân loại chúng ta xuất hiện sau trận đại hồng thủy, trước thời kỳ Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, ở Ấn Độ có Bà La Môn giáo, mà Bà La Môn giáo là tín ngưỡng tôn giáo của thời kỳ văn minh nhân loại lần trước lưu truyền lại. Trước Đạo giáo của Lão Tử, tổ tiên của người Trung Quốc cổ đại bao gồm cả thời Phục Hy, đã sáng tạo ra một thời kỳ rực rỡ, huy hoàng của Đạo gia ở Trung Quốc. Kinh Dịch, Bát Quái, Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư đều là sự kết tinh văn hóa do các nhà tu Đạo tiền sử lưu truyền lại. Ở phương tây trước thời Chúa Jesus cũng có Do Thái giáo.

Cần nói rõ rằng, Thần Phật từ thiên quốc hạ xuống nhân gian không triển hiện cho con người thấy hình dáng của Thần Phật, càng không thể triển hiện thần thông của họ. Mà họ chỉ có thể đầu thai thành người xuống thế gian, dùng ngôn ngữ con người để truyền Pháp giảng Đạo. Sáu vị Phật nguyên thủy, Phật Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử và Chúa Jesus cũng đều như vậy. Chúa Jesus bị đóng đinh chết ba ngày sau sống lại, vẫn dùng  hình dạng con người để đi gặp các môn đệ của mình; Phật quang mà người ta nhìn thấy trên đỉnh núi Nga Mi cũng chỉ là quang ảnh của một thời oanh liệt đã qua; Thất Tiên Nữ là người trời xuống trần kết hôn với Đổng Vĩnh, cũng trông giống như các cô thôn nữ bình thường.

ScreenHunter 2 1
Thần Phật từ thiên quốc hạ xuống nhân gian – Ảnh: Internet

Thời xưa, tu Phật, tu Đạo đều phải vào núi sâu rừng già; về sau tu Phật phải vào chùa, tu Đạo phải vào Đạo quán, đều phải cách xa nhân thế hoặc đoạn tuyệt với đời. Tại sao phải làm như vậy? Bởi vì người tu luyện có thể xuất hiện năng lực siêu thường, ví như “Lục thông” (sáu phép thần thông) trong Phật giáo, nhưng họ tuyệt đối không được dùng năng lực siêu thường để can nhiễu đến tư tưởng và trạng thái của con người trong xã hội người thường—đây là qui tắc được định ra từ thời đầu sáng lập thế giới. Người Trung Quốc có cách nói như thế này: “Tiểu ẩn ẩn vu sơn, đại ẩn ẩn vu thế” (Tu luyện trong núi thì dễ, tu luyện tại thế gian mới khó), “Chân nhân bất lộ tướng, lộ tướng bất chân nhân” (Người đắc đạo không thể hiện thân phận thật của mình trước mặt người khác). Vì sao bậc cao nhân phải ẩn mình? Vì sao bậc chân nhân không lộ tướng? Điều này đều có nguyên do giống nhau.

Vô lượng vô tỷ các sinh mệnh từ cao đến thấp trong vũ trụ đều có đẳng cấp, thứ bậc rõ ràng. Chúng ta thường nói “con người là anh linh của vạn vật”, địa vị của con người trên Trái đất không phải do con người tiến hóa mà có được, đó là chiếc quyền trượng mà Thần đã ban cho con người. Thực ra, con người chỉ là sinh mệnh cao cấp nhất trên Địa cầu nhỏ bé, còn trong mắt các sinh mệnh cao cấp hơn trong vũ trụ rộng lớn thì con người chỉ là sinh mệnh cấp thấp và có năng lực thấp kém. Sinh mệnh trong bất cứ không gian nào cũng đều có phương thức tư duy và trạng thái sinh tồn riêng, vào đến không gian nhân loại thì phải có trạng thái sinh tồn của con người, điều này là do Pháp lý vũ trụ quyết định. Nó rất giống với nhận thức của con người thế gian về đạo lý “nhập gia tùy tục”. Do đó, Phật Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử và Chúa Jesus mà chúng ta thấy đều có hình tướng con người, nhưng điều họ giảng ra đều là những Pháp lý có thể giúp cho con người trở thành Phật, thành Đạo, thành Thần.

Chúng ta lần giở những cuốn sách cổ, trong đó có không ít ghi chép về những thần thú trên thiên thượng như rồng, phượng, kỳ lân đã xuất hiện tại nhân gian. Ở Osaka, Nhật Bản có một ngôi chùa tên là chùa Thụy Long, trong chùa có lưu giữ một tiêu bản rồng thực rất quý. Nhưng từ xưa đến nay chưa bao giờ có ghi chép việc một vị Thần Phật nào đó đến thế gian dưới hình dạng chân thực rực rỡ ánh hào quang của mình, mà chỉ có câu chuyện về Bồ Tát Quán Âm dưới hình dạng bà lão ở nhân gian hành thiện. Những người nghĩ rằng chỉ khi tự mình tận mắt nhìn thấy Thần Phật thì mới tin thật sự có Thần Phật, có lẽ vì anh ta không hiểu được những đạo lý này nên mới nhận thức như vậy!

Tuy nhiên, các vị Thần và chư Phật đến thế gian, bản chất bên trong và sứ mệnh của cuộc đời họ dù sao cũng khác với người thường, cho nên sẽ có những biểu hiện siêu thường so với người thường. Sách cổ ghi lại rằng khi các vị thánh nhân, đại đức, Thần Phật hạ thế, Trời nhất định sẽ gửi xuống theo những điềm lành. Lấy Phật Thích Ca Mâu Ni làm ví dụ, kinh điển Phật giáo viết rằng, khi Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, trong vườn ngự uyển của hoàng cung xuất hiện tám điềm lành, trăm loài chim tụ hội, tiếng hót êm dịu vui tai, cỏ hoa bốn mùa đồng loạt nở. Điều kỳ lạ nhất là trong cái ao lớn của cung điện đột nhiên mọc lên một bông sen trắng to như bánh xe, đóa sen trắng mọc ra vừa đúng lúc Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời tại nhân gian. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni mới ra đời, hàng ngàn ánh kim quang lóe lên trong cuống lưỡi, mỗi ánh kim quang lại hóa thành một đóa sen trắng nghìn cánh, trong mỗi đóa sen còn có một vị tiểu Bồ Tát đang ngồi v.v.

Phật Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử và Chúa Jesus lần lượt giảng Pháp truyền Đạo ở nhân gian suốt mấy chục năm. Sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình, cách họ rời khỏi thế gian để trở về Thiên quốc cũng khác nhau. Phật Thích Ca Mâu Ni đi con đường niết bàn, khi nhục thể hỏa táng tạo ra 84.000 hạt xá lợi tử; Lão Tử ra ngoài tây Hàm Cốc Quan ở ẩn, người đời không biết rốt cuộc ông đã đi đâu; Chúa Jesus bị đóng đinh chết trên cây thập tự, xác thịt chịu đau đớn, thống khổ để chuộc tội cho các môn đệ. Họ đã lưu lại “Kinh Phật”, “Đạo Đức Kinh” và “Kinh Thánh”, lần lượt hình thành Phật giáo, Đạo giáo và Cơ Đốc giáo, trải qua mấy ngàn năm vẫn được con người tín ngưỡng và sùng bái, điều này đã thể hiện đầy đủ năng lượng và trí huệ to lớn vượt ra ngoài thời gian và không gian của Thần Phật; cũng thể hiện khát vọng của thế nhân muốn được cứu độ, phản bổn quy chân, ước nguyện trở về Thiên quốc.

392 590x308 1
Sau khi truyền Đạo ở thế gian Thần Phạt sẽ trở về Thiên Quốc – Ảnh minh hoạ: Internet

Người Trung Quốc thường nói trên đầu ba thước có Thần linh; cũng có người nói Thần không nơi nào không có. Có bao nhiêu vị Thần trên thiên thượng? Phật Thích Ca Mâu Ni hình dung: Phật Như Lai trên thiên thượng nhiều như cát sông Hằng! Nói một cách tương đối, những vị Phật mà con người được phép biết đến là rất ít. Mặc dù vậy, nếu liệt kê tên của các vị Thần ở phương đông và phương tây được con người biết đến trong nền văn minh nhân loại lần này thì cũng đã là một danh sách dài. Những cái tên này không chỉ là những văn tự đơn điệu mà rất sống động, đằng sau mỗi cái tên đều có những câu chuyện tu luyện cảm động trời đất như câu chuyện tu luyện của Phật Milarepa, Chân Vũ Đại Đế; đều có rất nhiều thần tích triển hiện như thần tích về Bát Tiên, Tế Công; đều có lòng từ bi vô hạn đối với hồng trần và chúng sinh như Văn Thù Bồ Tát, Quan Thế  m Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát…, đã được sử sách ghi lại. Trong những niên đại lịch sử mà tổ tiên loài người đã sống, cũng là thời kỳ con người thuần phác và có tiêu chuẩn đạo đức cao, tín Thần, tu thành Thần, thờ phụng Thần linh, đó là việc đại sự hàng đầu từ triều đình cho đến thường dân, là văn hóa chính thống thời bấy giờ. Ở Trung Quốc, nền văn hóa chính thống này đã được kế thừa hàng ngàn năm, cho đến thời nhà Thanh. Trong các nghi thức trang trọng, phức tạp của hoàng đế nhà Thanh cho đến các nghi thức trong thiên đàn tế trời, chúng ta có thể thấy được lòng kính ngưỡng và biết ơn vô hạn đối với thiên thượng của các vị vua triều Thanh.

Tổ tiên loài người tin rằng Thần không chỉ tạo ra con người,mà còn che chở cho con người về mọi mặt, phúc phận của nhân loại đều là nhờ bái Thần Phật mà được ban cho. Điều này không giống như chủ nghĩa vô thần tuyên truyền rằng Thần chỉ là trí tưởng tượng của người xưa, cho rằng do con người thời đó còn mông muội và bất lực trước tự nhiên nên phải ký thác tinh thần vào thứ ảo tưởng nào đó. Đối với người xưa Thần có thật, không phải là hư ảo, đức tin với Thần của người xưa là xuất phát từ nội tâm, lòng thành kính với Thần của người xưa là quỳ gối phủ phục sát đất. Vậy thì đối với những người kính Thần hướng thiện như vậy, Thần sẽ triển hiện hình tượng của mình cho họ thấy. Do đó, những thợ thủ công và họa sĩ của tất cả các dân tộc trên thế giới đã khắc họa, miêu tả hình ảnh của Thần theo những gì họ nhìn thấy. Người vô thần nói rằng hình ảnh Thần là do con người tưởng tượng ra dựa theo ngoại hình của chính mình, đây kỳ thực là lối suy luận ngược chiều của người vô thần, một sự võ đoán lẫn lộn. Sự thật là Thần tạo ra con người theo hình tượng của chính mình. Cho nên, hình dáng của con người chúng ta mới giống như ngoại hình của Thần. Sự tương đồng giữa ngoại hình của người và Thần cũng giống như con cái giống với bố mẹ vậy. Chúng ta chỉ nghe nói con cái trông giống bố mẹ chứ không nói ngược rằng bố mẹ trông giống con cái. Chẳng phải loạn hết cả rồi sao?

Trong tất cả các ngành khoa học của nhân loại hiện đại, thực sự có thể đưa ra bằng chứng để trả lời cho vấn đề “nguồn gốc của con người”, đầu tiên phải nói đến khảo cổ học. Rất nhiều các phát hiện khảo cổ khắp nơi trên thế giới đã chứng minh một sự thật rằng: thời kỳ văn minh của nhân loại trên Trái đất không chỉ xuất hiện một lần, mà đã xuất hiện nhiều lần.

Lò phản ứng hạt nhân hai tỷ năm trước, kính viễn vọng 30.000 năm trước v.v, ngày càng có nhiều phát hiện khảo cổ chứng minh rằng trên Trái đất từng xuất hiện nhiều lần văn minh. Sự thực này đã trực tiếp lật đổ thuyết vô thần và thuyết tiến hóa, gián tiếp khẳng định thuyết hữu thần và thuyết Thần sáng tạo. Những người bảo vệ thuyết tiến hóa ban đầu muốn thông qua khảo cổ phát hiện những sinh vật hóa thạch để bổ sung chứng cứ còn thiếu cho giả thuyết này, nhưng kết quả hoàn toàn ngược lại. Hầu như tất cả các hóa thạch đều chứng minh rằng thuyết tiến hóa không thể đứng vững. Cho dù là phát hiện hóa thạch bộ xương của người khổng lồ cao năm mét, hay là hiện vật của người tí hon cao mấy tấc vẫn còn tồn tại ở thế gian, đều trở thành những chứng cứ rõ ràng đủ để đè bẹp thuyết tiến hóa.

Cho đến nay, chỉ có hai giả thuyết về nguồn gốc của con người: Một giả thuyết là Thần tạo ra con người, giả thuyết này đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác suốt hàng ngàn năm, giả thuyết kia là thuyết tiến hóa đầy ấu trĩ. Nếu thuyết tiến hóa đã bị phủ nhận bởi những bằng chứng khảo cổ không thể chối bỏ, vậy thì giả thuyết Thần tạo ra con người trở thành sự lựa chọn duy nhất. Đúng vậy, con người tiền sử không hề lừa dối chúng ta, tổ tiên đời đời của chúng ta không hề lừa dối chúng ta: con người là do Thần tạo ra, điều này vô cùng chính xác.

“Thần dùng đất bùn để tạo ra con người” nói lên điều gì

Một trong những trở ngại khiến cho người hiện đại không thể lý giải và tin rằng “Thần dùng đất bùn tạo ra con người”, chính là người ta cho rằng “đất bùn” không phù hợp với cơ thể con người chúng ta: cơ thể của chúng ta rõ ràng là máu thịt, tại sao lại gọi là “đất bùn”? Sauđây chúng tôi sẽ giải thích vấn đề này.

Nhìn từ nội hàm và chức năng, văn hóa truyền thống Trung Quốc có thể phân thành hai bộ phận lớn, đó là bộ phận xuất thế và bộ phận nhập thế, cũng có thể gọi là văn hóa tu luyện quay về trời và văn hóa làm người tại thế gian. Bộ phận xuất thế mà đại biểu là Phật giáo, Đạo giáo và Cơ Đốc giáo, giảng về thông qua tu luyện để thành Phật, thành Đạo, thành Thần. Bộ phận nhập thế, mà đại biểu là Nho giáo, giảng về đạo lý tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. ĐCSTQ lấy chủ nghĩa vô thần làm nền tảng, đã gọi văn hóa tu luyện là “cặn bã phong kiến”, kỳ thực hoàn toàn trái lại, đó mới là tinh hoa chân chính của văn hóa truyền thống Trung Quốc.

nu oa tao ra con nguoi
Nữ thần Nữ Oa dùng bùn đất tạo ra con người – Ảnh: Internet

Nhìn tổng thể trong lịch sử của Trung Quốc, các triều đại đều có nhiều người tu luyện, ai mà không muốn lên trời chứ? Nhưng không phải ai cũng có thể bước vào tu luyện, bởi vì còn phụ thuộc vào căn cơ và duyên phận. Phong Thần diễn nghĩa tuy là một tác phẩm văn học, nhưng đúng như chúng ta thường nói, các tác phẩm văn học nghệ thuật đều bắt nguồn từ cuộc sống mà còn cao hơn cuộc sống. Cho nên, các nhân vật trong cuốn sách đều lấy nguyên mẫu từ cuộc sống, rất nhiều người lúc đó là người tu Đạo trong núi, cũng có vị chính là Thần trên trời. Ví dụ, Quảng Thành Tử được nói đến trong truyện, tương truyền rằng Hoàng Đế năm đó từng vào núi gặp Tiên, cầu xin Quảng Thành Tử truyền dạy cách tu luyện và đạo an dân trị quốc.

Chúng ta biết rằng con người trong xã hội nhân loại, căn cứ theo địa vị xã hội và hoàn cảnh kinh tế có thể phân thành các tầng lớp khác nhau. Tương tự như thế, sinh mệnh trong vũ trụ, căn cứ theo trạng thái sinh mệnh, trí huệ và năng lực khác nhau cũng có thể phân thành các cảnh giới khác nhau.

Sơ đồ cảnh giới các sinh mệnh trong vũ trụ

Tại sao con người phải tu luyện? Chính là để đề cao cảnh giới và tầng thứ của sinh mệnh. Phật gia là để tu thành Phật, Đạo gia để tu thành Đạo, còn Cơ Đốc giáo để tu thành Thần của thế giới Thiên quốc đối ứng với người phương tây. Phương pháp tu luyện và mức độ tinh tấn khác nhau quyết định sự khác biệt của quả vị cuối cùng mà người tu luyện chứng đắc được. Thông thường, nếu như tu tốt nhưng chưa đắc chính quả thì có thể lên đến tầng thứ thiên nhân ở thiên giới trong Tam giới, hưởng phúc phận làm Thần Tiên trong mấy trăm năm, khi hưởng hết tuổi trời thì lại nhập lục đạo luân hồi. Nếu như một người tu đắc chính quả thì có thể nhảy ra khỏi Tam giới, không tái nhập luân hồi nữa. Sau khi ra khỏi Tam giới, sinh mệnh tầng thứ nhất là La Hán, đều có thân hình nam; nếu tu tốt hơn một chút thì có thể tiến vào cảnh giới Bồ Tát, sinh mệnh của cảnh giới này đều có thân hình nữ, nếu như tu tốt hơn nữa thì có thể đạt đến cảnh giới của Phật, về hình tượng đều hiển hiện nguyên hình của mình. Cứ như vậy đến khi tu thành sinh mệnh cao cấp của cảnh giới cao hơn.

Picture1
Sơ đồ cảnh giới các sinh mệnh trong vũ trụ – Ảnh: Internet

Chúng ta thường nghe thấy câu này: “Thần ở trên trời”. Câu này kỳ thực không phải do người hiện đại nói, giống như câu “Thần dùng đất bùn tạo ra con người”, câu nói này cũng được lưu truyền lại từ thời rất xa xưa. Chữ “trời” mà người Trung Quốc cổ xưa nói và trời mà người hiện đại chúng ta nhận thức bằng khoa học tự nhiên kỳ thực không cùng một khái niệm. “Trời” trước đây chỉ Thiên đường, là thế giới của Thần Phật mà mắt thịt nhìn không thấy, phải nhìn bằng thiên nhãn mới thấy, chính là một không gian khác mà các nhà khoa học hiện đại đang nghiên cứu và tìm kiếm. Chữ “trời” hiện nay chỉ nói về khoảng không phía trên bề mặt của Trái đất trong không gian mà nhân loại đang sinh tồn, hai khái niệm “trời” này có bản chất khác nhau. Chúng ta biết rằng trong văn hóa truyền thống Trung Quốc nói: “Một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất”, “Trời và người hợp làm một chỉnh thể”, “Ông Trời đền bù cho người cần cù” v.v. Trời ở đây rõ ràng không giống với khái niệm trời trong khoa học tự nhiên ngày nay.

Lấy ví dụ, chúng ta có thói quen ngắm trăng, đứng từ Trái đất nhìn lên Mặt trăng, chúng ta sẽ cho rằng trăng ở trên trời, chúng ta không cảm thấy như vậy có gì không ổn. Tuy nhiên, nếu chúng ta may mắn trở thành phi hành gia bay lên Mặt trăng, khi chúng ta nhìn lại Trái đất, chẳng phải Trái đất cũng ở trên trời sao? Không khác gì với cảm giác khi đứng trên Trái đất nhìn Mặt trăng. Vậy thì rốt cuộc đâu là trời, đâu là đất? Quả thực ngay lập tức không thể nói rõ.

Con người hiện đại chúng ta gọi khoảng không từ mặt đất trở lên là bầu trời, bầu trời ở tầng khí quyển trở lên gọi là vũ trụ. Bầu trời hay vũ trụ cũng vậy, rốt cuộc đều nói về phạm vi không gian mà nhân loại sinh tồn. Chúng ta biết rằng tất cả vật thể trong không gian mà con người sinh tồn, hạt cơ bản lớn nhất là các phân tử, chúng ta có thể gọi nó là không gian phân tử. Trong khái niệm “trời” của khoa học tự nhiên, nói Mặt trăng ở trên trời, kỳ thực nói một cách chính xác hơn là Mặt trăng ở trong không gian phân tử cách Trái đất một khoảng cách nhất định, Trái đất và Mặt trăng cùng tồn tại ở các vị trí khác nhau trong không gian phân tử. Tương tự như vậy, vị trí của các hành tinh lớn khác so với Hệ mặt trời cũng có thể được nhận thức và biểu đạt theo cách này.

Nói đến đây, chúng ta có thể trả lời được một câu hỏi thú vị: Văn hóa truyền thống nói “Thần ở trên trời”, tại sao ngày nay tàu vũ trụ của con người bay cao như thế, kính viễn vọng thiên văn nhìn xa như thế, nhưng lại không phát hiện ra Thần Phật? Thế là, có người liền tùy tiện đưa ra kết luận thế này: Thần Phật hoàn toàn không tồn tại. Họ không biết được rằng, tàu vũ trụ dẫu có bay cao đến đâu, kính viễn vọng thiên văn dẫu có thể nhìn xa đến đâu cũng không vượt qua được không gian phân tử mà con người chúng ta đang sống. Nói thẳng ra, đều chưa vượt khỏi thế gian con người! Nếu là như vậy, phi thuyền vũ trụ bay tới bay lui trong nhân gian, kính viễn vọng thiên văn nhìn tới nhìn lui trong nhân gian, dù có vẻ bay được rất cao, nhìn được rất xa, làm sao có thể phát hiện được Thần Phật và Thiên quốc của Thần Phật?

Sự khác biệt cơ bản giữa “trời” trong văn hóa truyền thống Trung Quốc và “trời” trong khoa học tự nhiên hiện đại là gì?

Nếu chú ý nhiều hơn đến “trời” trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, chúng ta sẽ phát hiện rằng trời phân thành nhiều tầng. Chẳng hạn, Phật gia cho rằng có 33 tầng trời, Đạo gia cho rằng có 36 tầng trời. Ví dụ tục ngữ Trung Quốc nói bên ngoài trời lại có trời, chín tầng trời v.v. Các môn phái khác nhau, các cảnh giới khác nhau có những nhận thức khác nhau về trời, đó là điều bình thường. Điều này cũng giống với quy luật “nhìn ngang thành dãy núi, nhìn chếch lên thành đỉnh núi”.

Chúng ta lại tiếp tục xem xét, không chỉ trời phân thành tầng mà đất cũng được phân thành tầng. Ví dụ 18 tầng địa ngục, dưới chín suối v.v. Vậy thì đối chiếu với sơ đồ cảnh giới các sinh mệnh trong vũ trụ trong bài viết này, phải chăng chúng ta có thể tưởng tượng như thế này: giữa cảnh giới khác nhau của sinh mệnh trong vũ trụ và kết cấu tầng cấp của trời đất có mối quan hệ đối ứng nào đó không? Câu trả lời là có.

Lấy ví dụ, Đạo giáo phân trời thành 36 tầng, lại còn phân nhỏ thành: sáu tầng trời dục giới, 18 tầng trời sắc giới, bốn tầng trời vô sắc giới, bốn tầng phạm thiên, bốn tầng trời thánh cảnh. Trong mỗi tầng trời các giới lần lượt có các tầng sinh mệnh từ thấp đến cao. Nói cụ thể chính là cái gọi là lục đạo luân hồi: thiên nhân đạo (người trời), Atula đạo (ma), nhân đạo (người), địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo, súc sinh đạo. Cũng chính là nói, trong văn hóa truyền thống, cảnh giới của sinh mệnh và kết cấu tầng thứ của trời đất là như nhau.

maxresdefault 1
“Trời” trong văn hóa truyền thống Trung Quốc và “trời” trong khoa học tự nhiên hiện đại là khác nhau – Ảnh: Internet

Vậy thì cảnh giới của sinh mệnh và cấu trúc tầng thứ của trời đất được hình thành như thế nào? Nói cách khác, cơ sở vật chất của cảnh giới và tầng thứ là gì? Kỳ thực, nhìn từ một góc độ nhất định, cơ sở vật chất của cảnh giới sinh mệnh và cấu trúc tầng thứ của trời đất chính là các hạt cơ bản lớn nhỏ khác nhau, cũng chính là các không gian vũ trụ khác nhau do các hạt cơ bản lớn nhỏ khác nhau cấu thành, biểu hiện ra ở từng tầng đất, từng tầng trời.

Thông qua khoa học hiện đại, chúng ta biết rằng ở không gian mà con người chúng ta sống, các hạt cơ bản ngoài cùng cấu tạo nên mọi vật chất đều là phân tử, sắt thép, đá, nước, không khí, thân thể người, v.v. đều như vậy, chúng ta tạm gọi không gian này là không gian phân tử. Chúng ta cũng biết rằng hạt cơ bản của tầng nhỏ hơn so với phân tử chính là nguyên tử, hạt nguyên tử không phải là một hạt tồn tại độc lập mà cũng được phân bố khắp không gian vũ trụ giống như các hạt phân tử. Các hạt nguyên tử tạo thành một tầng không gian khác, hết thảy các sinh mệnh và vật thể trong tầng không gian này đều có cấu tạo ngoài cùng là các nguyên tử. Tương tự như thế, các hạt cơ bản nhỏ hơn nữa như proton, neutron, electron, quark, neutrino v.v. cũng tạo thành những tầng không gian trong cảnh giới riêng của chúng.

Vậy, sinh mệnh trong không gian được cấu thành bởi các hạt cơ bản lớn hơn có gì khác so với sinh mệnh trong không gian được cấu thành bởi các hạt vi quan hơn? Dưới đây, chúng tôi lấy ví dụ về sinh mệnh của không gian phân tử và sinh mệnh của không gian nguyên tử để so sánh và làm rõ.

Trước hết, vì hạt cơ bản ngoài cùng của tất cả sinh mệnh và vật chất trong không gian nguyên tử là các nguyên tử. Thông qua khoa học hiện đại, chúng ta biết rằng thể tích của một phân tử lớn hơn nhiều so với thể tích của một nguyên tử, sự khác biệt tính bằng chữ số thiên văn. Trong không gian nguyên tử, các hạt cơ bản ngoài cùng cấu thành nên đại não của con người tất nhiên cũng là các nguyên tử, vậy thì kết cấu tổ chức của đại não ấy phải tinh vi hơn rất nhiều so với kết cấu của đại não con người trong không gian phân tử của chúng ta. Đồng thời, đại não của họ hoàn toàn khai mở; nghiên cứu khoa học hiện đại phát hiện rằng não người chúng ta có hơn 70% bị khóa. Đây là lý do tại sao Thần Phật có đại trí đại huệ, mà so với Thần, trí lực của chúng ta chỉ có thể được gọi là trí thông minh nhỏ bé. Có một câu ngạn ngữ Do Thái ở phương tây là “Nhân loại hễ suy nghĩ, Thượng Đế liền bật cười”. Điều này không có nghĩa là Thượng Đế coi thường con người, mà là phương thức tư duy của con người mang theo dục vọng và sự ích kỷ, trong mắt của Thượng Đế nó quá trẻ con.

Thứ hai, vì thể tích của phân tử lớn hơn rất nhiều so với thể tích của nguyên tử, sự khác biệt tính bằng chữ số thiên văn. Vậy nên, da của sinh mệnh trong không gian phân tử thô ráp hơn nhiều so với da của sinh mệnh trong không gian nguyên tử. Lấy ví dụ, nếu lớp da của người trong không gian phân tử được làm bằng đá cuội, thì da của người trong không gian nguyên tử còn trơn bóng hơn cả kính rất nhiều. Điều này trùng khớp với hình ảnh đẹp đẽ và thánh khiết của các vị Thần Phật, Bồ Tát và các nàng tiên xinh đẹp mà chúng ta biết. Đây là lý do tại sao chúng ta thường mô tả vẻ đẹp của các cô gái đẹp nhất ở nhân gian là “đẹp như tiên”.

Thứ ba, chúng ta biết các nghiên cứu hiện đại đã phát hiện ra rằng nguyên tử có tính phóng xạ, nghĩa là nguyên tử trong không gian phân tử có thể hiện năng lượng. Điều này chính là trùng hợp với “ánh hào quang của Phật” phát ra khi Thần Phật và Bồ Tát xuất hiện trong không gian phân tử của con người chúng ta. Kỳ thực “ánh hào quang của Phật” chính là thể hiện của năng lượng.

Từ ba điểm trên, chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng đặc trưng của các sinh mệnh sống trong không gian vi quan đều trùng hợp với đặc trưng của Thần—sinh mệnh cao cấp mà trong văn hóa truyền thống Trung Quốc đã nói đến. Điều đó có nghĩa là, trong không gian cấu thành bởi các hạt vi quan có tồn tại các sinh mệnh cao cấp, đó chính là Thiên đường mà con người chúng ta đời đời kính ngưỡng và hướng tới.

Tất nhiên, sự khác biệt giữa sinh mệnh của không gian được cấu thành bởi các hạt vi quan và con người chúng ta không chỉ dừng lại ở những điều này. Chẳng hạn, thân thể của sinh mệnh trong thế giới vi quan không có trọng lượng nặng nhẹ, có thể bay lên, có thể biến lớn thu nhỏ, có thể biến hóa thành nhiều hình tượng khác nhau; chỉ cần liếc mắt là họ có thể nhìn thấy mọi điều trong cảnh giới bên dưới mình; sinh mệnh của họ được tính bằng ‘kiếp’, họ có thể sống trong một thời gian rất rất dài; họ muốn gì thì huơ tay là có; họ không có kiểu lừa gạt nhau, đấu đá nhau như ở nhân gian, sống rất an nhiên tự tại, v.v.

Tại sao con người phải tu luyện? Để đến được bến bờ của hạnh phúc, đó là chốn trở về của sinh mệnh, là mục đích chân chính làm người. Tại sao con người phải sống, tôi là ai, tôi đến từ đâu, v.v… những câu hỏi cuối cùng của nhân sinh, chẳng phải câu trả lời chính là ở đây rồi sao?

Lão Tử nói trong Đạo Đức Kinh: “Có không sinh ra nhau, dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới dựa vào nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau”. Nói cách khác, mọi thứ trong vũ trụ đều tồn tại tương hỗ với nhau. Tương tự, trời và đất cũng là song hành tồn tại. Nếu chúng ta so sánh kết cấu thứ bậc hoàn chỉnh của trời và đất mà tôn giáo giảng với một tòa nhà cao tầng, thì trần của tầng một là sàn của tầng hai; trần của tầng hai là sàn của tầng ba; trần của tầng ba là sàn của tầng bốn, cứ như vậy, lên đến mức cao nhất của tòa nhà cao tầng vạn trượng. Mặc dù ví dụ này tuy không thích hợp lắm, nhưng đại khái có nghĩa như vậy.

Đến đây, chúng ta có thể giải khai một ẩn đố: Trong mắt của các chúng Thần ở Thiên đường bên trên Tam giới, thì toàn bộ Tam giới đối với Thiên đường của họ mà nói đều có thể gọi là ‘địa’ (地), đều có thể gọi là ‘thổ’ (土). Bởi vì địa chính là thổ, thổ chính là địa (đều là đất). Nói cách khác, hàm nghĩa chân chính của câu “Thần dùng đất bùn để tạo ra con người” kỳ thực chính là ý nói “Thần tạo ra con người bằng các hạt vật chất trong Tam giới”. 

Thần đã dùng cách nào để tạo ra con người?

Một trở ngại khác mà người hiện đại không thể hiểu và tin rằng “Thần dùng đất bùn để tạo ra con người” là: Nếu nói Thần sử dụng đất —vật chất trong Tam giới— để tạo ra con người, đất là nguyên liệu mà Thần tạo ra con người, thế thì Thần đã dùng cách nào, hoặc dùng năng lực gì để tạo ra con người?

Chúng ta có thể hiểu được những nghi vấn đặt ra này. Bởi vì, theo quan niệm và tư duy của con người chúng ta, việc tạo ra ngoại hình con người tương đối dễ, chẳng hạn như chạm khắc tượng đá, nung tượng người bằng gốm sứ, nặn tượng người bằng bột hay thổi kẹo hình người, đây đều là những kỹ thuật mà chúng ta thường nhìn thấy. Nhưng con người không chỉ có ngoại hình là xong, cấu trúc bên trong cơ thể con người, từ những bộ phận lớn như lục phủ ngũ tạng đến những chi tiết nhỏ như huyết quản, mao mạch, đến nữa là cấu trúc xoắn kép DNA mà hiện nay chúng ta biết, còn có các kinh mạch vi diệu hơn, tạo ra cơ thể con người giống như một công trình sinh vật nhỏ bé tinh xảo như vậy, Thần đã hoàn thành nó như thế nào? Sau đây chúng ta sẽ làm rõ vấn đề này.

Như đã nói trong phần trước, Thần là sinh mệnh cao cấp có trí huệ và năng lực vượt trội hơn rất nhiều so với con người. Hoàng Đế là ông tổ của văn hóa nhân loại, ông đã lên núi tìm Tiên, cầu xin Quảng Thành Tử truyền Đạo, dạy cách tu luyện và đem lại thái bình cho đất nước. Khổng Tử là thánh nhân bậc nhất, ông cũng đã từng vấn lễ thỉnh giáo Lão Tử, ông cung kính gọi Lão Tử là “rồng” – Rồng Thần thấy đầu không thấy đuôi. Hoàng Đế và Khổng Tử đều làm như vậy, khỏi phải nói tầng tầng chúng sinh ở thế gian cũng vậy. Khoảng cách giữa con người và Thần không phải là khoảng cách giữa mẫu giáo và sau tiến sĩ, không phải là khoảng cách giữa người với người, mà là khoảng cách giữa toàn bộ con người và sinh mệnh cao cấp, là khoảng cách giữa các cảnh giới của sinh mệnh, là khoảng cách tính bằng con số thiên văn. Thể hiện qua cách làm việc: con người làm việc gì đều phải dùng bộ não điều khiển cơ thể và tay chân để làm, còn Thần là dùng Phật Pháp thần thông để làm các việc. Thần tạo ra con người chính là dùng Phật Pháp thần thông.

images 1 1
Thần dùng Thần thông để tạo ra con người – Ảnh: Internet

Chúng tôi nói rõ “Thần dùng đất bùn để tạo ra con người” là để thanh trừ hai tà thuyết “Thuyết vô thần” và “Thuyết tiến hóa” đã truyền bá những độc tố và hiểu nhầm cho nhân loại; gỡ bỏ cái mũ ô nhục “con người tiến hóa từ động vật” mà hai tên hắc thủ là thuyết vô thần và thuyết tiến hóa đã chụp lên đầu nhân loại, sửa đổi tận gốc “thuyết nguồn gốc loài người”, làm sáng tỏ loài người kế thừa dòng máu cao quý của Thần Phật, trả lại bản lai diện mục của con người là “con dân của Thần”, để nhân loại chúng ta hướng về Thần mà “nhận tổ quy tông”, thức tỉnh thần tính mà con người đã lãng quên, và cùng Sáng Thế Chủ tiếp tục kết thánh duyên cứu độ.

Nếu thật sự như vậy, các thế hệ trẻ của chúng ta ngày nay cũng xứng đáng với những khổ tâm, nỗ lực miệt mài của tổ tiên chúng ta để truyền đi phúc âm thông thiên “Thần dùng đất bùn để tạo ra con người” từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Theo Chánh Kiến

Xem thêm:

Xem thêm

- Quảng cáo -spot_img

Xem nhiều