Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trở thành một thế lực kinh tế và quân sự lớn trên thế giới. Lợi dụng điều đó, họ không ngừng bành trướng quân sự ở Biển Đông.
Khi mà sức mạnh quân sự của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ngày càng lớn mạnh trong những năm gần đây, chính quyền này đã vi phạm Tuyên bố về Cách ứng xử của Các bên ở Biển Đông bằng việc thực hiện một loạt hành vi độc đoán dựa trên cách giải thích đơn phương về chủ quyền vùng biển. Khi mà Indonesia và Việt Nam cùng có chung quan ngại sâu sắc về các cuộc tập trận và về các tàu tuần tra quy mô lớn của Trung Quốc trên Biển Bắc Natuna, hai nước này cuối cùng cũng kết thúc đàm phán về các đường ranh giới của vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) vào ngày 28/12/2022, sau 12 năm thương thảo căng thẳng. Ngay sau đó, tàu 5901 của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Trung Quốc (CCG) đã đi vào khu vực này.
Indonesia cử tàu chiến theo dõi tàu cảnh sát biển Trung Quốc
Ông Laksamana Muhammad Ali, chỉ huy hải quân Indonesia, nói với Reuters vào ngày 14/01 rằng một tàu chiến, một máy bay tuần tra và một máy bay không người lái đã được triển khai tới Biển Bắc Natuna để giám sát một tàu cảnh sát biển Trung Quốc. Tàu Trung Quốc này hoạt động trong khu vực giàu tài nguyên nơi mà cả Indonesia và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền.
Theo Reuters, tổ chức tư vấn Indonesian Ocean Justice Initiative cho biết rằng kể từ ngày 30/12/2022, tàu Trung Quốc mang số hiệu CCG 5901 đã đi vào vùng biển Natuna, nơi đặc biệt gần mỏ khí Tuna Bloc của Indonesia và mỏ dầu khí Chim Sáo của Việt Nam.
Các hệ thống giám sát tàu (VMS) cho thấy tàu CCG 5901 khởi hành từ Tam Á (Sanya), thành phố ven biển thuộc tỉnh Hải Nam, Trung Quốc, vào ngày 16/12, sau đó tiến vào vùng Đặc quyền Kinh tế của Indonesia vào ngày 30/12.
Sau khi Indonesia và Việt Nam hoàn tất đàm phán về đường ranh giới vùng Đặc quyền Kinh tế của cả hai nước vào tháng 12/2022, Indonesia sau đó đã đưa ra kế hoạch khoan thăm dò đầu tiên tại mỏ dầu khí Tuna.
Mỏ dầu khí Tuna, nằm giữa Indonesia và Việt Nam, được phát hiện bởi chi nhánh Indonesia của công ty Harbor Energy của Anh. Khoản đầu tư vào đây lên tới 3 tỷ USD. Hoạt động xuất khẩu dự kiến sẽ bắt đầu vào năm 2026 và sản lượng ước tính đạt 115 triệu feet khối tiêu chuẩn mỗi ngày (MMSCFD) vào năm 2027.
Tuna Bloc nằm toàn bộ trong vùng Đặc quyền Kinh tế của Indonesia và cách vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam 13 km (8 dặm). Tuy vậy, chính quyền Trung Quốc vẫn tuyên bố “các quyền lịch sử” đối với vùng biển mà họ vạch ra trong đường 9 đoạn hình chữ U xung quanh Biển Đông trên bản đồ lãnh thổ chính thức của họ – mặc dù Tuna Bloc cách Trung Quốc tới 1.610 km (1.000 dặm). Năm 2016, Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) ở Hague (Hà Lan) đã kiên quyết bác bỏ các yêu sách về vùng biển mở rộng của ĐCSTQ với lý do “không có cơ sở trong luật pháp quốc tế”.
Năm 2017, Indonesia đổi tên phía bắc vùng Đặc quyền Kinh tế của họ ở Biển Đông thành Biển Bắc Natuna, dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS); chính quyền Trung Quốc đã không công nhận quyết định này của Indonesia. Năm 2021, các nhà khai thác dầu khí được phép triển khai khoan thăm dò tại mỏ Tuna Gas để kiểm tra trữ lượng. Họ đã bị các tàu tuần tra của Trung Quốc giám sát, đồng thời nhận được yêu cầu phải ngừng khoan thăm dò; Trung Quốc tuyên bố khu vực này là của họ.
Hoạt động của ĐCSTQ ở Biển Đông phá hoại trật tự quốc tế
ĐCSTQ đã trở thành một thế lực kinh tế và quân sự lớn trên thế giới. Trong những năm gần đây, họ không ngừng bành trướng quân sự ở Biển Đông, đi ngược lại Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Tuyên bố về Cách ứng xử của Các bên ở Biển Đông, đồng thời thực hiện một loạt hành vi độc đoán ở vùng biển này.
Tại Đại hội Toàn quốc lần thứ 19 của ĐCSTQ, nhà lãnh đạo Tập Cận Bình phát biểu rằng Bắc Kinh sẽ thúc đẩy nhiều hoạt động xây dựng trên các đảo và rạn san hô ở Biển Đông với tiến độ ổn định.
Ngày 21/06/2012, Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập chính quyền thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm [Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Hưng], nhằm trao quyền tài phán đối với một số đảo, bao gồm quần đảo Hoàng Sa [Trung Quốc gọi là quần đảo Tây Sa], bãi ngầm Macclesfield [nằm ở mạn đông của quần đảo Hoàng Sa; Trung Quốc gọi là quần đảo Trung Sa] và quần đảo Trường Sa [Trung Quốc gọi là quần đảo Nam Sa]. Năm 2013, chính quyền Trung Quốc bắt đầu hoạt động cải tạo trên diện rộng 7 đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
3 năm sau, 7 đảo nhỏ kể trên được xây dựng thành các đảo lớn. Nhiều tòa nhà đồ sộ mọc lên, bao gồm một ngọn hải đăng, một nhà máy điện, một tháp radar, một trạm liên lạc và một nhà máy khử muối.
ĐCSTQ cũng xây dựng bến cảng, sân bay, khu chứa máy bay, bệnh viện và các khu thể thao cho các mục đích quân sự và dân sự trên Đá Vành Khăn [Philippines gọi là Đá Panganiban; Trung Quốc gọi là Mỹ Tế Tiêu], Đá Subi và Đá Chữ Thập. Họ đã thành lập một thành phố – điều này vi phạm Tuyên bố về Cách ứng xử của Các bên ở Biển Đông.
Những bước đi này đặt Biển Đông dưới sự kiểm soát của ĐCSTQ với 3 hòn đảo nhân tạo và đảo Phú Lâm mới được mở rộng – nơi có thành phố Tam Sa. Theo tuyên bố chính thức của ĐCSTQ, những đảo này tương đương với 4 siêu tàu sân bay không thể chìm.
Năm 2018, tàu chiến chịu trách nhiệm tuần tra của Trung Quốc ở lì nhiều tháng trong vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. Tàu nghiên cứu khoa học của Trung Quốc đã tiến hành thăm dò địa chấn tại vùng biển tranh chấp – nơi là khu vực dầu khí của Việt Nam.
Tháng 05/2019 chứng kiến tình huống bế tắc giữa tàu nghiên cứu khoa học của Trung Quốc và tàu chiến của Malaysia, trong vùng Đặc quyền Kinh tế của Malaysia. Tình huống này kéo dài 1 tháng tại khu vực gần một tàu khoan của công ty nhà nước Petronas của Malaysia.
Vào tháng 04 và tháng 06/2019, một tàu chiến của hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã xuất hiện gần bãi cạn Scarborough [còn được gọi là bãi cạn Panatag; Việt Nam không tuyên bố chủ quyền với bãi cạn này]. Philippines tranh cãi với ĐCSTQ về khu vực tranh chấp ở Biển Đông mà cả Philippines và Bắc Kinh đều tuyên bố chủ quyền. ĐCSTQ đã cố gắng ép buộc Philippines chấp nhận rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với khu vực này – nơi trước đây Trung Quốc chiếm được bằng vũ lực, rằng mọi chuyện đã rồi và không thể thay đổi được.
Trung Quốc đánh giá thấp mức độ quan tâm của quốc tế đối với Biển Đông
Trên thực tế, trong nhiều thập kỷ, chính quyền Trung Quốc đã áp dụng chiến lược “duy trì hiện trạng” và “tránh xung đột” ở Biển Đông do họ còn nhiều hạn chế trong sức mạnh kinh tế và quân sự. Tháng 04/1994, một tàu thăm dò nghiên cứu trái đất – biển sâu đã được nhìn thấy đi từ tỉnh Quảng Châu (Trung Quốc) đến Bãi Tư Chính (Việt Nam) để tiến hành thăm dò và khai thác tài nguyên. Tuy nhiên, dưới sự phản đối gay gắt của Việt Nam, con tàu này đã phải rời đi. Tháng 05/1997, tàu chiến tuần tra của ĐCSTQ đã phải rút khỏi một khu vực thuộc bãi cạn Scarborough sau 3 ngày tranh chấp không phân thắng bại với Philippines.
Có vẻ như Trung Quốc đã đánh giá thấp mức độ quan tâm của thế giới tới tình hình tại Biển Đông; nhiều quốc gia đã bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại vùng biển này.
Ngày 13/07/2020, trong một tuyên bố về quan điểm của Hoa Kỳ đối với các yêu sách hàng hải, Ngoại trưởng Michael R. Pompeo lần đầu tiên tuyên bố rõ ràng rằng “PRC [Trung Quốc] không có cơ sở pháp lý để đơn phương áp đặt ý chí của họ lên khu vực”. Ông Pompeo cũng chỉ trích Bắc Kinh vì đã bắt nạt các quốc gia ven biển Đông Nam Á trong khu vực Biển Đông nhằm khai thác tài nguyên ngoài khơi; vì đã đơn phương áp đặt chủ quyền và đã thay thế luật pháp quốc tế bằng “luật của kẻ mạnh”.
Ngày 25/07/2020, trong một tuyên bố trước Tòa án Trọng tài, Úc đã bác bỏ yêu sách của ĐCSTQ đối với “các quyền lịch sử”; Úc thậm chí còn đi xa hơn nữa khi bác bỏ yêu sách của ĐCSTQ đối với “các quyền và lợi ích hàng hải” có được nhờ “thực tiễn lịch sử” – vì những yêu sách này không phù hợp với UNCLOS và không hợp lệ.
Ngay sau đó, Brunei, Malaysia, Philippines, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và Việt Nam tiếp bước bằng cách bác bỏ khoảng 90% các tuyên bố của ĐCSTQ về chủ quyền đối với nhiều vùng biển ở Biển Đông.
Ngày 02/08/2021, lần đầu tiên trong gần hai thập kỷ, Đức cử một tàu khu trục đến Biển Đông, mở rộng sự hiện diện quân sự của nước này trong khu vực. Các quan chức cho biết hải quân Đức sẽ theo sát các tuyến đường thương mại chung. Berlin nói rõ rằng sứ mệnh của họ là nhằm nhấn mạnh thực tế rằng Đức không chấp nhận các yêu sách về lãnh thổ của Bắc Kinh.
Cùng ngày hôm đó, Bộ Quốc phòng Ấn Độ ra lệnh triển khai lực lượng đặc biệt tới Biển Đông trong thời gian 2 tháng. Các tàu của hải quân Ấn Độ có nhiệm vụ đảm bảo trật tự bình thường trong lĩnh vực hàng hải và “tăng cường mối quan hệ hiện có giữa Ấn Độ với các quốc gia ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”.
Tháng 08/2022, Trung Quốc tiến hành nhiều cuộc tập trận quân sự trong không phận và hải phận xung quanh Đài Loan, đe dọa đến lãnh hải của hòn đảo này, mục đích là để trả đũa việc Đài Bắc tiếp đón Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi. Nghiêm trọng hơn, Trung Quốc đã bắn tên lửa vào vùng Đặc quyền Kinh tế của Nhật Bản.
Ngày 11/11/2022, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida nói với các nhà lãnh đạo châu Á tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) ở Campuchia rằng Bắc Kinh liên tục và ngày càng có nhiều hành động xâm phạm chủ quyền của Nhật Bản ở Biển Hoa Đông, cũng như làm leo thang căng thẳng trong khu vực – đặc biệt là ở Biển Đông.
Tháng 01/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden và Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio có một cuộc nói chuyện tại Washington D.C. (Mỹ). Cả hai nhà lãnh đạo tái khẳng định tầm nhìn chung về một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và cởi mở, một thế giới hòa bình và thịnh vượng, cũng như sự cần thiết phải kiểm soát những thách thức ngày càng gia tăng do ĐCSTQ tạo ra.
Trung Quốc là thành viên của các thỏa thuận quốc tế
Biển Đông [tên quốc tế là South China Sea – Biển phía Nam Trung Quốc] bao gồm các vùng biển ở phía nam đất nước Trung Quốc, được bao quanh bởi Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Brunei, Philippines và Đài Loan. Kể từ khi các quốc gia tiếp giáp Biển Đông giành độc lập vào những năm 1950, trong một thời gian dài đã tồn tại bất đồng về định nghĩa lãnh hải và quyền của các quốc gia tại các vùng biển.
Liên Hợp Quốc đã tổ chức một số hội nghị liên quan đến các tranh chấp về Biển Đông. Năm 1982, đại diện các quốc gia liên quan đạt được thỏa thuận cuối cùng và ký Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Công ước có hiệu lực vào ngày 16/11/1994. Trung Quốc là một trong hơn 150 quốc gia thuộc tất cả các khu vực trên thế giới ký tên vào Công ước. UNCLOS là cột mốc phục vụ cho bộ quy tắc ứng xử hàng hải quốc tế mà cộng đồng quốc tế đã tuân theo kể từ khi nó có hiệu lực. Công ước là một văn kiện gồm các quy tắc về việc khai thác các vùng biển; đồng thời cung cấp khuôn khổ để phát triển hơn nữa các khía cạnh cụ thể của luật biển, bao gồm quần đảo, đường cơ sở lãnh hải, vùng Đặc quyền Kinh tế và cách phân định thềm lục địa và đáy biển.
Tháng 11/2002, chính quyền Trung Quốc, cùng 10 thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ký kết Tuyên bố về Cách ứng xử của Các bên ở Biển Đông. “Các bên liên quan cam kết giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thông qua tham vấn và đàm phán hữu nghị giữa các quốc gia có chủ quyền liên quan trực tiếp, phù hợp với các nguyên tắc phổ cập của luật pháp quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982; các bên cam kết tự kiềm chế trong việc tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định – bao gồm, nhưng không giới hạn ở, đưa người đến sinh sống trên các đảo, bãi đá ngầm, bãi cạn và các thực thể khác hiện không có người ở, đồng thời cam kết giải quyết bất đồng một cách xây dựng”.
Theo The Epoch Times
Xuân Hoa (NTDVN) biên dịch