Ông Ngô Văn Tuấn, Tổng Kiểm toán Nhà nước cho biết qua kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022 tại Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và tổng hợp một số kết quả kiểm toán chính của các cuộc kiểm toán tổ chức trong năm 2023, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị tăng thu giảm chi ngân sách nhà nước 21.346,33 tỷ đồng; kiến nghị xử lý khác 28.595,09 tỷ đồng; kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, thay thế, ban hành mới một số nội dung không phù hợp với quy định pháp luật hoặc chưa phù hợp với thực tiễn của 198 văn bản.
Liên quan đến thu ngân sách, Kiểm toán Nhà nước cho biết bên cạnh đa số các khoản thu vượt dự toán, còn một số khoản thu đạt thấp như: thuế bảo vệ môi trường đạt 72,2% dự toán giao; thu hồi vốn, thu cổ tức, lợi nhuận sau thuế, chênh lệch thu chi Ngân hàng Nhà nước đạt 83,5% dự toán giao (nguyên nhân do số thu hồi vốn ngân sách nhà nước đầu tư tại các tổ chức kinh tế chỉ đạt 12,83% dự toán giao).
Tình trạng hạch toán và kê khai thiếu doanh thu, xác định sai chi phí từ đó tính thiếu thuế cũng như các khoản thu khác được Kiểm toán Nhà nước phát hiện qua kiểm toán và kiến nghị tăng thu ngân sách nhà nước 3.841 tỷ đồng.
Theo Kiểm toán Nhà nước, trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế còn tình trạng một số cơ quan thuế xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế chưa đầy đủ; chưa kiểm tra đầy đủ các loại hồ sơ khai thuế đối với người nộp thuế lựa chọn kiểm tra tại cơ quan thuế theo quy định.
Cơ quan thuế chưa phối hợp với các cơ quan có liên quan để quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử của các hộ, cá nhân có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm.
Việc quản lý tiền thuê đất, tiền sử dụng đất vẫn còn tình trạng đơn vị sử dụng đất nhưng chưa có quyết định thuê đất hoặc hợp đồng thuê đất, chưa xử lý thu hồi đất thuê theo quy định đối với các trường hợp tổ chức cá nhân được nhà nước cho thuê đất đã bỏ địa chỉ kinh doanh nhiều năm; chưa điều chỉnh hoặc chậm điều chỉnh đơn giá thuê đất khi hết thời kỳ ổn định đơn giá thuê đất; xác định giá đất hoặc vị trí thửa đất để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất chưa phù hợp với quy định. Còn trường hợp miễn, giảm tiền thuê đất không đúng đối tượng; miễn tiền thuê đất vượt thời gian quy định; giảm tiền sử dụng đất không đúng quy định.
Có tình trạng khai thác khoáng sản nhưng chưa có hợp đồng thuê đất hoặc quyết định cho thuê đất; chưa thu đầy đủ và tính chưa chính xác phí bảo vệ môi trường.
Về quản lý nợ thuế: Tổng nợ thuế do cơ quan thuế quản lý (chưa bao gồm nợ dầu thô và nợ ngoài ngành thuế) đến 31/12/2022 tăng 36% so với năm 2021 (158.914,7/116.961,7 tỷ đồng). Một số địa phương không đạt chỉ tiêu thu nợ do Tổng cục Thuế giao. Tại nhiều địa phương một số cơ quan thuế áp dụng biện pháp cưỡng chế nợ thuế chưa đầy đủ, kịp thời đối với người nộp thuế; phân loại nợ chưa đúng quy định.
Nợ thuế do cơ quan hải quan quản lý đến 31/12/2022 tăng 3,8% so với năm 2021 (7.298,7/7.028 tỷ đồng). Một số Cục Hải quan không đạt chỉ tiêu thu nợ do Tổng cục Hải quan giao; việc phân loại vào nợ khó thu đối với các khoản nợ đọng thuế chuyên thu tại thời điểm 31/12/2022 còn chưa phù hợp với trạng thái người nộp thuế tại Website: tracuunnt.gdt.gov.vn của Tổng cục Thuế; còn 206 người nộp thuế có thông tin phân loại nợ thuế chưa thống nhất trên tờ khai hải quan.
Việc khoanh, xóa nợ thuế theo Nghị quyết số 94/2019/QH14 lũy kế từ khi thực hiện Nghị quyết đến 30/6/2023: Khoanh nợ 704.614 người nộp thuế, số tiền 28.398,2 tỷ đồng; xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp 390.074 người nộp thuế, số tiền 8.773,4 tỷ đồng.
Kết quả kiểm toán cho thấy, còn tình trạng khoanh, xóa chưa phù hợp với trạng thái tại website tracuunnt.gdt.gov.vn (cơ quan thuế và cơ quan hải quan); một số trường hợp người nộp thuế có ngày thay đổi thông tin gần nhất tại website tracuunnt.gdt.gov.vn sau ngày cơ quan hải quan ban hành quyết định khoanh nợ. Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị cơ quan thuế, hải quan rà soát việc khoanh, xóa nợ thuế để xử lý theo quy định.
Liên quan đến chi đầu tư phát triển, Kiểm toán Nhà nước chỉ ra loạt vấn đề nổi cộm sau:
Còn tình trạng 44 dự án nguồn ngân sách trung ương được kéo dài thời gian giải ngân, thanh toán từ năm 2021 sang năm 2022 nhưng không giải ngân hết trong năm 2022 phải hủy bỏ với số tiền 348,7 tỷ đồng và tiếp tục được bố trí kế hoạch vốn năm 2022 nhưng vẫn không giải ngân được, phải kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân sang năm 2023 là 611 tỷ đồng hoặc hủy bỏ 1.418 tỷ đồng, bằng 80% kế hoạch vốn giao năm 2022.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa tổng hợp phương án phân bổ chi tiết kế hoạch vốn hàng năm từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư để báo cáo Chính phủ theo quy định.
Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư tại một số bộ, cơ quan trung ương thấp dưới 50% kế hoạch vốn được giao; tỷ lệ giải ngân vốn ODA, vốn vay ưu đãi chỉ đạt 47%.
Ngoài ra, theo báo cáo của Bộ Tài chính khoản giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi trước năm 2019 chưa được ghi thu, ghi chi lên tới 4.445,534 tỷ đồng, qua kết quả kiểm toán còn chênh lệch so với số báo cáo của Bộ Tài chính là 3.268,346 tỷ đồng.
Kiểm toán Nhà nước thống nhất với số liệu quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022 do Chính phủ trình Quốc hội sau khi rà soát, thực hiện kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. Cụ thể: (i) Thu cân đối ngân sách nhà nước 2.713.787 tỷ đồng; (ii) Chi cân đối ngân sách nhà nước 2.897.466 tỷ đồng; (iii) Bội chi ngân sách nhà nước 293.313 tỷ đồng, bằng 3,07 % GDP thực hiện.
Số nợ đọng xây dựng cơ bản đến 31/12/2022 còn lớn, trong đó còn nợ đọng xây dựng cơ bản trước ngày 1/1/2015 số tiền 2.163,74 tỷ đồng, năm 2022 còn để phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản.
Tỷ lệ tiết kiệm đấu thầu qua mạng còn thấp, khoảng 2,34%, chỉ bằng 50% so với tỷ lệ tiết kiệm chung (4,72%).
Về chi thường xuyên, một số khoản chi sự nghiệp nguồn ngân sách trung ương thực hiện thấp so với dự toán giao. Một số đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các bộ chưa trích lập nguồn cải cách tiền lương, sử dụng nguồn cải cách tiền lương chi không đúng quy định; theo dõi, quản lý nguồn cải cách tiền lương không chính xác. Một số địa phương thực hiện chi chuyển nguồn chưa đủ thủ tục.
Đối với kiến nghị kiểm toán năm 2022 (niên độ kiểm toán năm 2021), đến 31/12/2023 các đơn vị đã thực hiện kiến nghị xử lý tài chính về tăng thu, giảm chi NSNN 31.719,05 tỷ đồng đạt tỷ lệ 91,69%; kiến nghị khác 30.566,16 tỷ đồng đạt tỷ lệ 82,72%.
Ngoài ra, đối với các kiến nghị kiểm toán trước năm 2022, trong năm 2023 các đơn vị được kiểm toán đã tiếp tục thực hiện thêm 10.302,89 tỷ đồng (trong đó kiến nghị tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước 3.417,2 tỷ đồng),
Số kiến nghị chưa thực hiện đến 31/12/2023 là 67.513,03 tỷ đồng. Trong đó có 4 nhóm nguyên nhân chưa thực hiện. (i) Nhóm nguyên nhân thuộc về đơn vị được kiểm toán 39.803,83 tỷ đồng chiếm 59%. (ii) Nhóm nguyên nhân thuộc về trách nhiệm của KTNN 283,07 tỷ đồng chiếm 0,4 %. (iii) Nhóm nguyên nhân thuộc về bên thứ 3 là 16.591,2 tỷ đồng chiếm 24,6 %. (iv) Nhóm nguyên nhân khác 10.834,93 tỷ đồng chiếm 16%.
Về sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách: Có 98/270 nội dung/văn bản đã được Chính phủ, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thực hiện hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung theo kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước, các kiến nghị khác các đơn vị đang tiếp tục nghiên cứu sửa đổi theo quy định.
Kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân: Có 68/183 báo cáo kiểm toán có kiến nghị kiểm điểm đã được các đơn vị thực hiện.
HN (VnEconomic).
Tân Thế Kỷ *Truyền Thống – Nhân Văn – Trung Thực*
Xem thêm: