Người xưa giáo dục con cái phải coi trọng đức, hướng thiện, bởi vì họ tìm thấy thứ bản chất nhất, căn bản nhất để làm người, đó chính là đạo đức.
Sự quan tâm nhân ái và yêu cầu nghiêm khắc của họ đối với con cháu, khiến con cháu vào bất kỳ lúc nào cũng có thể phân biệt rõ đúng sai, lựa chọn con đường nhân sinh đúng đắn. Đó chính là tính kế lâu dài và có trách nhiệm với tương lai, khiến con cháu cả đời thọ ích, là tài sản đáng giá nhất lưu lại cho chúng.
Hãy cùng “Khát Vọng Cuộc Sống” chia sẻ câu chuyện về cách giáo dục con trẻ của người xưa, để có những chiêm nghiệm sâu sắc.
Trong Văn hóa truyền thống, người xưa rất coi trọng phẩm đức và tiết tháo, không chỉ yêu cầu bản thân mình dốc sức thực hành, mà còn vô cùng coi trọng bồi dưỡng đức hạnh cho đời sau. Tinh thần ngôn truyền thân giáo này đã trở thành tấm gương cho người đời sau quy chính bản thân và giáo dục con cái.
Tư Mã Quang và “Huấn kiệm thị Khang”: dạy con tiết kiệm
Nhà sử học đời Bắc Tống Tư Mã Quang là người chính trực quang minh, làm quan cần kiệm liêm chính. Cả đời ông không có việc gì mà không thể nói với mọi người. Ông giáo dục con trai Tư Mã Khang “tiết kiệm là mỹ đức”, dùng phương thức viết thư viết bài văn tiêu đề “Huấn kiệm thị Khang” (dạy con tiết kiệm).
Xung quanh lời cổ huấn “Thành do kiệm, bại do xa” (thành công do tiết kiệm, thất bại do xa hoa), kết hợp với kinh nghiệm sống bản thân và trải nghiệm thiết thân của mình, viện dẫn rất nhiều những trường hợp điển hình để giáo dục.
Mở đầu bài văn, Tư Mã Quang nói: “Nhà ta vốn nghèo, nhiều đời truyền thừa thanh bạch… mọi người đều coi xa hoa là vinh dự, trong tâm cha chỉ coi tiết kiệm là tốt đẹp”. Ông cảm thán đương triều “phong tục rất xa hoa, nhưng bản thân cần tự giữ mình thanh khiết, không được theo trào lưu”.
Tư Mã Quang liên tiếp nêu sự tích tác phong tiết kiệm của các viên quan như Lý Kháng, Lỗ Tông Đạo và Trương Văn Tiết, giáo dục con dốc sức trừ bỏ xa hoa, cẩn thận tiết kiệm sử dụng. Ông nói: “Cả đời y phục chỉ để tránh rét, ăn uống chỉ để no bụng. Người đọc sách cần có chí hướng cầu chân lý, trau dồi đạo đức, không truy cầu phù hoa bên ngoài. Phong khí mấy năm gần đây rất xa hoa lãng phí, phong khí bại hoại, bậc chính nhân quân tử có thể trợ giúp phong khí xấu này sao? Chỉ có người có đạo đức cao thượng thì mới có suy tính mưu tính sâu xa”, “xa hoa thì nhiều dục vọng. Người quân tử nhiều dục vọng thì ham phú quý, Đạo bị phế bỏ, và nhanh chóng bị tai họa. Kẻ tiểu nhân nhiều dục vọng thì ham cầu sử dụng cuồng vọng, bại hoại gia tộc và mất mạng”.
Một lần, Tư Mã Quang thấy con trai dùng tay tùy tiện lật trang sách đọc, bèn dạy con rằng: “Người quân tử thích đọc sách Thánh hiền, trước tiên cần phải yêu quý sách. Trước khi đọc sách, trước tiên phải rửa tay sạch sẽ, lau sạch bàn, trải vải trên bàn. Khi đọc sách, cần ngồi ngay ngắn, thái độ cung kính, tĩnh tâm học tập, không để đầu óc nghĩ vẩn vơ. Làm người cần chất phác, làm việc cần thiết thực, có đủ những phẩm chất đạo đức này, thì mới có thể tu thân, tề gia, cho đến trị quốc, bình thiên hạ”.
Dưới sự giáo dục của ông, Tư Mã Khang chuyên tâm đọc sách, tu chân dưỡng tính, tự giác tiết kiệm, chất phác, sau này làm quan Hiệu thư lang, Trước tác lang… Về việc làm người, học tập, ông cũng rất giống phụ thân. Đương thời, vùng Bắc Kinh Lạc Dương lưu truyền câu nói rằng: “Có thể làm bậc thầy mẫu mực, là cha con Tư Mã”.
Dạy con “học tập quan trọng ở bản thân thực hành Đạo”
Lục Du, thi nhân kiệt xuất thời Nam Tống, là người cương trực không a dua, quan tâm đến bách tính. Do không a dua giới chuyên quyền nên ông nhiều lần bị giáng chức.
Ông có 6 con trai và 1 con gái, và rất coi trọng giáo dục con cái làm người. Ông răn dạy con rằng: “Chỉ mong các con sau khi trưởng thành, bà con dân làng khen các con là người có đạo đức. Cho dù làm một người dân thường, thì so với những người quan cao tước lớn, cũng không có gì hổ thẹn”.
Ông giáo dục các con phải biết học tập và hiểu đạo lý. Trong “Ngũ canh độc thư thị tử” (Canh 5 đọc sách dạy con), ông viết: Các con hiện nay đang là thời cơ tốt để đọc sách, cần khắc khổ học tập, chớ để lỡ mất cơ hội tốt. Đọc sách thì điều quan trọng nhất là học để áp dụng, cần phải thiết thực làm được “lời thiện châm ngôn cần dốc sức làm”, “học tập quan trọng nhất ở bản thân thực hành”, “từng chữ từng lời nhỏ đều phải dốc sức thực hành”.
Học tập phong thái cao khí tiết sáng của người xưa, không a dua quyền quý, chính trực vô tư, từng giờ từng phút nghĩ báo đáp tổ quốc. Ông còn dạy các con rằng: “Nếu các con muốn học thơ, thì công phu nằm ở bên ngoài thơ”, tức làm văn thì trước tiên phải làm người. Phải chú trọng tu thân, thường xuyên kiểm tra bản thân, có lỗi ắt phải sửa. Thấy người khác có hành vi tốt, thì chủ động tự giác học tập. Không được kết giao với những người hào hoa khoác lác mà không chân thực.
“Đông dạ độc thư thị tử Duật” (Đêm đông đọc sách dạy con) là trước tác của Lục Du khi ông đọc sách dạy con vào đêm đông. Ông tay cầm tay dạy con trai tên là Duật viết chữ, dạy con đọc sách, học tập thì nhất định phải chuyên cần không mệt mỏi, giữ thường hằng: “Người xưa dốc hết sức truy cầu học vấn, còn trẻ dốc sức công phu, đến già mới bắt đầu có thành tựu…”.
“Tống tử Long phó Cát Châu duyện” (Tiễn con làm chức duyện ở Cát Châu) là lời tặng của ông dành cho con trai thứ 2 là Lục Tử Long đến Cát Châu nhậm chức quan địa phương, trong thơ có viết: “Con làm quan lại ở Cát Châu, chỉ uống nước Cát Châu, một xu cũng cần phải phân minh, sử dụng người hiền năng, tránh kẻ sàm ngôn phỉ báng”. Ông yêu cầu con trai làm quan thanh bạch.
Ông còn nói với con trai rằng, Ở Cát Châu, cha có một số bạn bè, họ không chỉ có học vấn mà còn có phẩm đức tốt. Sau khi con đến đó, con có thể đến thăm họ, nhưng không được đưa ra yêu cầu gì với họ, có thể cùng họ khích lệ lẫn nhau. Không được mưu lợi lộc, liêm khiết giữ mình, trở thành một người chính khí, chân chính, mưu cầu phúc cho bách tính. Các con của Lục Du sau này đều trở thành những kẻ sĩ hiền đức nổi tiếng.
Dạy con “làm người lập phẩm hạnh”
Trương Anh, đại học sĩ đời Thanh, kính tín Thần Phật, vui làm việc thiện, làm quan thanh liêm chính trực, trước nỗi khổ của người dân và hạn hán lũ lụt, ông đều báo cáo rõ, được Khang Hy rất tín nhiệm.
Trong bản gia huấn “Thông huấn trai ngữ”, ông nhiều lần đề cập đến làm người cần phải lập phẩm hạnh: “Đọc kinh sách, tu thiện đức, cẩn thận uy nghi, cẩn thận lời nói”. Trong giáo dục gia đình, ông chưa bao giờ chủ trương nghiêm mặt quở trách, mà sử dụng những lời đơn giản rõ ràng, tinh tế nhẫn nại. Ông dạy con trai Trương Đình Ngọc cách làm người, xử thế rằng: “Kết giao với người, mỗi lời mỗi việc, đều phải có ích lợi cho người, thì đó là người thiện”; “nếu có thể để tâm suy nghĩ từng lời từng hành vi, đều nghĩ có ích cho người, hết sức tránh tổn hại cho người, thì mọi người sẽ coi trọng như loan phượng, sẽ quý trọng như nhân sâm linh chi, ắt sẽ được Thiên địa bảo hộ, quỷ Thần kính phục, từ đó được hưởng phúc”.
Trương Đình Ngọc ghi nhớ lời dạy của cha, từ nhỏ đã học thuộc kinh thư, đối xử với người khoan hậu cung kính, tiết kiệm, sau làm đại học sĩ, quân cơ đại thần. Sau này, con trai của Trương Đình Ngọc là Trương Nhược Ải tham gia thi đình, đỗ thứ 3 đệ nhất giáp, tức Thám hoa.
Sau khi Trương Đình Ngọc nghe tin, ông đề ra “Nhân tài trong thiên hạ rất nhiều, 3 năm kỳ thi lớn, không ai không mong đợi đỗ cao, con của quan lại không nên xếp trước con cái những kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ”. Ông cho rằng, con trai vẫn còn trẻ, vẫn cần nỗ lực học tập, trau dồi, tích phúc đức, như thế mới thiết thực đáng tin cậy, cầu xin để con trai xuống nhị giáp.
Hoàng đế Ung Chính nghe theo thỉnh cầu của ông, chuyển Trương Nhược Ải xếp đầu đệ nhị giáp. Sau này Trương Nhược Ải nhậm chức ở Nam thư phòng, Quân cơ xứ, tận tâm làm hết chức trách, khiêm tốn, có phong thái giống với phụ thân. Mọi người đều ca ngợi gia phong của Trương gia thuần hậu, cái tâm khiêm tốn, vị công sáng tỏ có thể sánh với nhật nguyệt, cả nhà 3 đời làm quan thanh liêm, nhân phẩm đoan chính, được người dân kính yêu.
Liên Tịnh
Theo “Khát Vọng Cuộc Sống”