Người Việt Nam từ xưa đến nay vẫn luôn tự hào là dòng dõi “con Rồng cháu Tiên”. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu rõ nguồn gốc của tích cổ này cũng như hiểu được nguồn cội chân thực của dân tộc Việt.
Giáo sư Dương Trung Quốc nói rằng: “Mọi quốc gia, dân tộc đều có nhu cầu thấu hiểu về nguồn gốc của mình. Đây là nhân tố cần thiết để gắn kết đồng loại. Con Rồng Cháu Tiên là một truyền thuyết trong dân gian, đã thực sự đi vào chính sử, để lý giải chúng ta là ai, gốc rễ sâu xa của chúng ta là gì, tại sao lại gắn kết thành quốc gia, dân tộc”.
Vậy lịch sử ghi chép thế nào về nguồn gốc “Rồng Tiên” của dân tộc Việt?
Theo Lĩnh Nam Chích Quái, ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh, cháu ba đời của Thần Nông. Ông có đứa con cả tên là Đế Nghi.
Khi Đế Minh đi tuần phương Nam thì gặp rồi đem lòng yêu thương nàng Vụ Tiên. Họ cưới nhau và sinh ra Lộc Tục. Cậu bé Lộc Tục từ nhỏ đã thể hiện được sự thông minh và ngay chính của mình.
Đế Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục, nên muốn chọn làm người nối ngôi. Tuy nhiên Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh cả mình là Đế Nghi.
Cuối cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo với Trời đất rằng:“Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.
Từ đấy phía Bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản.
Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương. Năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, biên giới phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Chiêm Thành, phía Tây giáp với Tứ Xuyên, phía Đông giáp với Biển Đông.
Sau đó Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, cưới con gái Vua hồ Động Đình – tức Long Vương, tên là Long Nữ rồi sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân.
Trong nhận thức và sự quan sát vạn vật của người xưa, Thủy Phủ song hành cùng Thiên Phủ và Địa Phủ, là các cõi không gian tồn tại đồng thời với không gian con người.
Sau khi trải qua các cuộc chiến với người Hoa Hạ ở phía Bắc, một tộc Việt đã lùi xuống phía Nam, mở rộng bờ cõi lập nên nước Việt ngày nay. Còn các tộc Việt khác bị thôn tính, trở thành một phần của Trung Quốc.
Theo ghi chép trong bộ sách Lĩnh Nam Chích Quái, Lạc Long Quân thay cha trị nước đã dạy dân cách ăn mặt, phép tắt, luân thường. Ông thường ở Thủy Phủ, chỉ khi có việc thì mới xuất hiện.
Ở phương Bắc, Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai quản. Một ngày, Đế Lai nhớ đến ngày trước ông nội Đế Minh từng Nam tuần gặp được tiên nữ, nên cũng tò mò. Ông đã cùng con gái là Âu Cơ và một số quần thần Nam du qua Xích Quỷ. Nhận thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có Vua, bèn cùng mọi người lưu lại nơi này.
Dân nước Nam khổ não vì sự phiền nhiễu, không được yên ổn như xưa nên đã cầu cứu Lạc Long Quân. Nghe thấy tiếng kêu Lạc Long Quân xuất hiện, trông thấy nàng Âu Cơ dung mạo xinh đẹp bèn đến bên. Nàng Âu Cơ trông thấy chàng cũng rất ưng thuận, rồi theo Lạc Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang.
Đế Lai không thấy Âu Cơ, cho người đi tìm khắp nơi. Lạc Long Quân dùng phép để người khác không tìm thấy nàng. Không còn cách nào khác, Đế Lai đành trở về.
Âu Cơ thành đôi với Lạc Long Quân được một năm thì sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không lành bèn đem bỏ ra ngoài. Hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng sinh ra một đứa con. Khi đem về nuôi nấng, những đứa trẻ không cần ăn uống mà vẫn lớn, trí dũng song toàn, ai cũng ngưỡng mộ, gọi họ là những anh em phi thường.
Lạc Long Quân thường xuyên đi về Thủy Phủ, còn mẹ con Âu Cơ ở trên đất liền, nhớ về Bắc quốc, nàng đến biên giới. Vua đất Bắc nghe tin, liền cho quân lính cản trở khiến mẹ con Âu Cơ không về được. Âu Cơ đã gọi Lạc Long Quân: “Chàng ở phương nào làm mẹ con ta thương nhớ”
Lạc Long Quân xuất hiện, gặp mẹ con Âu Cơ ở Tương Dã. Âu Cơ nói rằng: “Thiếp vốn người đất Bắc, sinh ra được một trăm con trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng, một mình vò võ…”
Lạc Long Quân nói: “Ta là loài rồng sinh trưởng ở Thủy tộc, nàng là giống Tiên sống ở trên mặt đất, vốn chẳng như nhau. Tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con trai về Thủy Phủ phân trị các xứ, năm mươi con trai theo nàng ở trên mặt đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau”.
Trăm con đều theo lệnh cha, 50 con theo cha xuống biển, 50 con cùng Âu Cơ ở lại Phong Châu, bây giờ là huyện Bạch Hạc. Sau đó, suy tôn con trai trưởng lên làm Vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang.
Về bờ cõi của nước thì đông giáp Biển Đông, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến Chiêm Thành, chia trong nước ra làm 15 bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Trường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quân.
Các lộ này được phân cho các em thứ cai trị, phân thành tướng Võ và tướng Văn. Tướng Văn gọi là Lạc Hầu, tướng Võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái Vua gọi là Mỵ Nương.
Dân khi ấy ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cầm thú làm thức ăn, bắt cá làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối. Lấy gỗ làm nhà tránh thú dữ, đất nương khi ấy trồng gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm, cắt tóc ngắn để tiện vào rừng. Nhà có người mất thì giã gạo để thông báo, trai gái lấy nhau dùng muối làm lễ hỏi.
Câu chuyện về nguồn gốc người Việt nghe có vẻ huyền hoặc và được lưu truyền qua bao đời, nhưng nó lại được đưa vào một trong những tác phẩm chính sử hoàn thiện nhất của nước Nam – Bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Cũng là một lần cùng nhìn lại nguồn gốc cao quý của dân tộc Việt, hoàn toàn không phải từ vượn tiến hoá mà thành.
Câu đối ở Lăng mộ Hùng Vương ở đền Hùng có ghi:
“Vân ám Động Đình Long chắc dạng
Nguyệt khuê Lĩnh Biểu Hạc qui tiên”.
Dịch nghĩa (Vũ Kim Biên):
“Mây phủ Động Đình Rồng xuất thế
Trăng soi Nghĩa Lĩnh Hạc quy tiên”.
Trong lời hát ru con từ xa xưa, những địa danh không có trên đất Việt ngày nay đã tồn tại từ bao giờ:
“Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
…Bống bồng bông, bống bồng bông
Võng đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên”.
Nhà sử học thời Lê Sơ – Ngô Sĩ Liên cũng là người biên soạn bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã kết luận về nguồn gốc của người Việt: “Thánh hiền sinh ra, tất có khác thường, đó là do mệnh Trời. Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra nhà Thương, giẫm vết chân người khổng lồ mà dấy nhà Chu, đều là ghi sự thực như thế. Con cháu dòng dõi Thần Nông là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh trăm con trai. Đó chẳng phải là cái gốc đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta hay sao?”.
Chân Tâm (t/h)
Tham khảo Tinh Hoa
Xem thêm:
- Giang sơn Rùa Thần, Quốc Tổ Lạc Long Quân và nguồn cội người Việt
- Tại sao nói “Thuận đạo Trời thì thịnh, nghịch đạo Trời thì vong?”
- Đứng trước thảm hoạ, bậc Vua chúa xưa thường làm gì?