spot_img
19 C
Vietnam
Thứ năm,19 Tháng chín
spot_img

6 bài thơ thiền giúp đề cao cảnh giới, tâm hồn phiêu diêu tự tại

Thơ Thiền là thể thơ do những nhà tu hành, các cao tăng đắc đạo viết lại trong quá trình giác ngộ về giáo lý nhà Phật hoặc Đạo. Đây là một thể loại thơ đặc biệt, đậm chất “thiền tính”. Người cảm ngộ được ý thơ sẽ cảm nhận được sự thăng hoa trong cảnh giới, tâm hồn phiêu diêu tự tại.

ngồi thiền
Thiền tịnh giúp cảnh giới thăng hoa, tâm hồn phiêu diêu, tự tại (Ảnh. Tinh Hoa)

Những nhà thơ viết được thể loại này phải am hiểu Phật Pháp hoặc đang tu hành. Trong trạng thái thiền tịnh, câu thông được với Pháp lý siêu xuất cảnh giới người thường mới viết ra được những vầng thơ đậm chất thiền. Họ còn phải có hiểu biết về các thể thơ cổ, các nguyên tắc nghiêm ngặt trong thơ Tống, Đường,… mới truyền tải được chất Thiền tính. Thể thơ bạch thoại, tự do tùy tiện ngày nay không thể chuyển tải được nội hàm sâu xa của thể thơ này.

Để cảm nhận được ý thơ, người đọc cũng phải nắm được một số nguyên tắc nhất định, không thể tùy tiên như đang xem phim ảnh hay các thể loại giải trí hiện đại. Ví như người xưa trước khi tấu nhị cầm cũng thắp nén trầm hương thơm ngát,…

Người đọc thơ cần mang tâm tĩnh lặng, có thể ngồi tĩnh, không suy nghĩ, không làm gì trong chừng năm phút. Thơ có cái hay riêng, ngoài ngôn từ thì nó còn có nhạc điệu và nội hàm. Những điều này nếu đọc nhanh như văn xuôi thì khó có thể hiểu và cảm thụ được toàn bộ triết lý và hàm ý bên trong của nó. Nếu bạn có sự am hiểu về Phật lý thì tâm hồn dễ dàng liên kết với các vầng thơ hơn.

Tho thien

Dưới đây là 6 bài thơ vừa đậm đà thiền vị lại tràn đầy ý thơ, mở ra trước mắt chúng ta cánh cửa giác ngộ về nhân sinh.

1. Thân như cây Bồ Đề, tâm như đài gương sáng

Thân thị bồ đề thụ,
Tâm như minh kính thai.
Thì thì cần phất thức,
Mạc sử nhạ trần ai.

– Thần Tú đại sư, “Tu hành kệ tụng”

Dịch thơ:

Thân là cây Bồ Đề,
Tâm như đài gương sáng.
Thời thời lau phủi sạch,
Chớ để bụi trần ai.

Đại sư Thần Tú là vị cao tăng mở đầu cho Thiền Tông Bắc phái. Bài kệ của ông là hình tượng cô đọng ba giai đoạn trong Phật giáo: Giới – Định – Huệ, ba giai đoạn này thể hiện thế giới quan của giáo lý nhà Phật.

Trong bài kệ gửi cho Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, ông đã ví thân và tâm với cây Bồ Đề và đài gương sáng. Nhân thân vốn là Phật thân, tâm tính vốn dĩ thanh tịnh, nhưng do các chủng dục vọng và chấp trước mà khởi lên tạp niệm, khiến tâm ý vấy bẩn bụi trần. Muốn giữ tâm thuần tịnh thì cần phải “thời thời lau phủi sạch, chớ để bụi trần ai”, thông qua quá trình tu dưỡng kiên trì và bền bỉ mới có thể dần dần lĩnh ngộ Phật lý, cuối cùng giác ngộ, trở thành Phật Đà.

2. Thú vui chỉ có một mình mình hay

Trung thế phả hiếu đạo,
Vân gia Nam sơn thuỳ.
Hứng lai mỗi độc vãng,
Thắng sự không tự tri.

Hành đáo thuỷ cùng xứ,
Toạ khan vân khởi thì.
Ngẫu nhiên trị lâm tẩu,
Đàm tiếu vô hoàn kỳ.

– Vương Duy “Chung Nam biệt nghiệp”

Dịch thơ:

Mùi thiền đứng tuổi mới ham
Về già ở cạnh núi Nam tu hành
Hứng đi lủi thủi vong tình
Thú vui chỉ có một mình mình hay

Ngồi nhìn những lúc mây bay
Đi theo suối nước tới ngay chỗ cùng
Đường rừng chợt gặp lão ông
Vui cười trò chuyện quên không trở về.

(Bản dịch của Trần Trọng Kim)

Thơ từ và hội họa của Vương Duy thấm đẫm chất thiền, ông được giới văn chương ca ngợi gọi là “Thi Phật”. Bài thơ khắc họa hình ảnh một lão nhân tu luyện nơi núi sâu rừng già. Một ngày trên núi Nam, lão nhân lội ngược dòng suối tìm đến nơi đầu nguồn, men theo dòng chảy cho đến khi không còn thấy gì nữa. Lão nhân ngồi xuống, nhàn nhã ngắm trời đất, thấy trên đỉnh núi từng áng mây tuôn ra như suối chảy.

Thì ra nước dưới đất chỉ là nước, nhưng khi lên trời sẽ biến thành mây, mây lại rơi xuống trở thành mưa, mưa biến suối khô thành dòng nước, nước ấy lại lên trời thành áng mây bay… Cuộc đời là một vòng tuần hoàn, đông đi xuân đến, khổ qua rồi sẽ là niềm vui phấp phới. Đời người vốn dĩ là vậy, hà tất phải tuyệt vọng làm chi?

ntdvn pexels photo 8985961 1
nhàn nhã ngắm trời đất, thấy trên đỉnh núi từng áng mây tuôn ra như suối chảy. (Ảnh pexels)

Cảnh giới nhân sinh cũng như thế: Quá trình từ nước thăng hoa thành mây bay, sau đó lại làm mưa rơi xuống cũng giống như trên bước đường tu hành, người tu luyện sẽ phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách: Khi là nghiệp bệnh trên thân thể, khi là chướng ngại trong tâm, lại có khi là trở ngại từ ngoại cảnh… Nhưng đừng để ngoại cảnh bào mòn ý chí, hãy đưa suy nghĩ trở lại cái tâm ban đầu. Tâm thuở ban đầu không có chướng ngại, cứ một mạch thẳng tiến, cứ phăng phăng bước đi mà không thấy đâu là điểm dừng. Hồi tưởng lại lúc đó rồi nhìn lại hiện tại, thì cho dù hiện tại có nghiệt ngã bao nhiêu, chẳng phải chúng ta đã đi được một đoạn đường rất dài rồi sao?

3. Xuân có trăm hoa, thu có trăng

Xuân hữu bách hoa thu hữu nguyệt,
Hạ hữu lương phong đông hữu tuyết.
Nhược vô nhàn sự quái tâm đầu,
Tiện thị nhân gian hảo thời tiết.

– Huệ Khai thiền sư, “Tụng bình thường tâm thị đạo”

Dịch:

Xuân có trăm hoa, thu có trăng,
Hạ về gió mát, tuyết đông giăng.
Ví lòng thanh thản không lo nghĩ,
Ấy buổi êm đềm chốn thế gian

(Bản dịch của Thiền sư Nhất Hạnh)

Những câu thơ trên vừa có cảnh sắc của cao sơn lưu thủy, lại vừa có hương vị của tuyết nguyệt phong hoa. Người tu luyện nơi thâm sơn cùng cốc, thân ở giữa thiên nhiên, nhàn nhã ngắm mây trời, chẳng vướng bận chuyện thế gian tục sự. Còn người bình thường giữa chốn phàm gian, tìm đâu ra phút giây bình lặng? Ngay cả khi nhàn rỗi thì trong lòng cũng có phiền tâm!

Mùa xuân có trăm hoa, mùa hạ có gió mát, mùa thu có trăng sáng, mùa đông có tuyết trắng. Phong, hoa, tuyết, nguyệt, vào mỗi thời mỗi khắc đều có thể khiến tâm cảnh rộng mở, ấy là vì người khai ngộ có thể bảo trì được sự điềm đạm và bình tĩnh lâu dài. Người tu luyện cho dù thân đang lặn lội giữa hồng trần, dạt trôi giữa dòng đời điên đảo, thì vẫn có thể đạt đến cảnh giới của gió, tuyết, trăng, hoa. Hay nói cách khác, nếu tâm cảnh rộng mở, an hòa, thì tâm sẽ không rối loạn vì những chuyện nhỏ nhặt, vậy thì thời thời khắc khắc đều trọn vẹn niềm vui.

4. Đời người như quán trọ, ta là khách qua đường

Nhân sinh như nghịch lữ,
Ngã diệc thị hành nhân

– Tô Thức “Lâm giang tiên – Tống tiễn Mục phụ”

Dịch thơ:

Đời người như quán trọ,
Ta là khách qua đường

Nhân sinh như quán trọ, người sống trên đời chỉ ký thác tấm thân vào chốn hồng trần. Trong “Xuân dạ yến tòng đệ đào hoa viên tự”, Lý Bạch viết: “Trời đất là quán trọ của vạn vật; quang âm là khách qua đường của trăm đời. Mà kiếp phù sinh như mộng, lúc vui được bao?”. Giữa trời đất bao la này, người người đều là khách qua đường, hà tất phải tính toán những chuyện hợp tan, xuôi ngược?

Tô Thức đã gửi lòng mình vào thi phẩm, từng câu từng chữ đều thấm đượm tiếng lòng của nhà thơ. Tô Thức cả đời ra vào chốn quan trường, đã từng có hoài bão và lý tưởng chính trị cao đẹp. Ông hết mình vì sự nghiệp công danh, nhưng đồng thời cũng nuôi dưỡng tâm thiền, tâm Đạo, hành sự theo tư tưởng Lão – Trang, sống thuận theo giáo lý nhà Phật. Mỗi khi quan trường có điều thất ý, rơi vào cảnh ngộ éo le, ông lại giữ cho mình tâm thái “du ư vật chi ngoại” (vượt ra ngoài vạn vật), “vô sở vãng nhi bất lạc” (không gì không thấy vui). Lấy thái độ điềm đạm tự an, nhàn nhã tự thích để đối đãi với cái ưu lo bộn bề của thế gian, thể hiện một phong thái khoáng đạt, tiêu sái, tùy ngộ mà an.

5. Mọi ân ái trên đời đều vô thường chóng phai

Nhất thiết ân ái hội,
Vô thường nan đắc cửu.
Sinh thế đa úy cụ,
Mệnh nguy ư thần lộ.
Do ái cố sinh ưu,
Do ái cố sinh bố.
Nhược ly ư ái giả,
Vô ưu diệc vô bố

– “Diệu Sắc vương cầu Pháp kệ”

Dịch thơ:

Mọi ân ái đời này,
Đều vô thường chóng phai.
Cõi thế nhiều khổ não,
Đời người như sương mai.
Do ái sinh sợ hãi,
Do ái sinh ưu phiền.
Kẻ nào lìa chữ ái,
Tâm mới được an nhiên.

Nam nam nữ nữ, đại đa số đều vướng mắc trong cái tình nhân thế, khó rời khỏi hai chữ yêu và hận. Nhưng con người lại vì yêu mà sợ hãi, vì yêu mà phiền não, chẳng có được một phút giây tĩnh tại.

Phật giáo giảng về con đường tu luyện, giảng về thất tình lục dục và tham sân si của con người. Chỉ khi buông bỏ được hận và yêu, cái tâm kia mới có thể tĩnh lại, lòng mới thấy được an nhiên. Phật giáo chú trọng tự phản tỉnh bản thân, thông qua thiền định mà đạt đến giác ngộ.

ntdvn pexels photo 7938556
Thông qua thiền định mà đạt đến giác ngộ. (Ảnh pexels)

Thế nào là thiền?

Mỗi người đều có “thiền” tâm của riêng mình, đối với người hiện đại, thiền có hàm nghĩa rất rộng: một bông hoa một cọng cỏ là thiền, một bữa ăn một ngụm nước cũng là thiền… Người ta cho rằng thế gian vạn vật không gì không có thiền, không gì không có Phật tính Chân Như.

Kỳ thực, Thiền là dịch âm chữ Phạn “Thiền Na” (dhyāna), nghĩa là tĩnh lặng, tịnh tâm. Thông qua phương thức tọa thiền mà giữ tâm tĩnh tại, xem xét lại bản thân, trừ bỏ những vướng mắc, buông bỏ hận và yêu, chặt đứt mọi ý niệm tham sân si, từ đó tiêu trừ hết thảy ảnh hưởng từ ngoại cảnh. Chỉ khi tâm thanh tịnh mới có thể lĩnh ngộ chân lý, chỉ khi tâm thanh tịnh mới có thể nắm bắt được Phật tính Chân Như, không gì không tồn tại.

6. Bồ Đề khi nào đắc chứng quả, mới tỉnh ra rằng ta là ta

Bình sinh bất tu thiện quả
Chỉ ái sát nhân phóng hoả
Hốt địa đốn khai kim thằng
Giá lý xả đoạn ngọc toả.
Di!
Tiền Đường giang thượng triều tín lai
Kim nhật phương tri ngã thị ngã.

– Thi Nại Am, “Thủy Hử”, bài kệ của Lỗ Trí Thâm

Dịch:

Bình sinh chẳng tu thiện quả
Chỉ thích sát nhân phóng hoả
Chợt tỉnh tháo tung dây vàng
Tới đây giật phăng khoá ngọc
Ôi!
Tiền Đường nghe sóng triều vang dội
Mới tỉnh ra rằng ta là ta.

Đây là bài kệ của hòa thượng Lỗ Trí Thâm trước giờ ngộ Đạo. Trong đời mình ông từng làm nhiều chuyện sát nhân, phóng hỏa, sau vì nhân duyên đưa đẩy nên mới miễn cưỡng đặt chân vào cửa Phật. Làm hòa thượng nhưng ông vẫn ăn thịt, uống rượu, vẫn hung hãn đánh người. Mãi đến phút cuối cùng ông mới đột nhiên giác ngộ, chứng đắc quả Bồ Đề, mới nhận ra rằng “ta là ta”.

“Mới tỉnh ra rằng ta là ta”, ấy là khi đã buông bỏ hết thảy, phóng hạ các chủng chấp trước, dục vọng, thậm chí ngay cả ý niệm cũng không khởi lên. Đến lúc này tâm sẽ hiển lộ ra bản tính thanh tịnh vốn có, ấy chính là Phật tâm, là Chân Như Phật tính.

***

Người vốn là người, hà tất phải chuyên tâm đi làm người; Đời vốn là đời, không cần phải lo toan đi xử thế. Cuộc sống nhân sinh, quan trọng không phải làm người hay xử thế, mà là cảnh giới.

Nhân sinh có ba cảnh giới:

Cảnh giới thứ nhất là: Nhìn núi thấy là núi, nhìn sông thấy là sông.
Cảnh giới thứ hai là: Nhìn núi không phải là núi, nhìn sông không phải là sông.
Cảnh giới thứ ba là: Nhìn núi vẫn là núi, nhìn sông vẫn là sông.

Trong quá trình nhân sinh, ba giai đoạn ấy đan xen nhau, có lúc nhìn núi là núi, có lúc nhìn núi không phải là núi, lại có lúc nhìn núi vẫn là núi. Suy nghĩ lại, cuối cùng minh bạch nhân sinh chính là một quá trình trải nghiệm, thăng hoa, cuối cùng giác ngộ.

Nghi Vân tổng hợp (Theo Sound Of Hope, Thơ Thiền)

Untitled 3 01 2


Xem thêm

- Quảng cáo -spot_img

Xem nhiều