Trên Cửu Hoa Sơn thờ phụng vị Địa Tạng Vương Bồ tát được cho là linh nghiệm nhất, đại từ, đại bi nhất. Tết nguyên đán vừa qua, Cửu Hoa Sơn ở tỉnh An Huy đột nhiên xuất hiện lượng lớn khách du lịch. Chỉ trong 5 ngày, có tới 300.000 người đổ về.
Những người vừa trải qua đại dịch hy vọng tới cầu xin nhận được sự bảo hộ của Địa Tạng Vương Bồ tát. Núi Cửu Hoa ở thành phố Trì Châu, tỉnh An Huy. Bởi vì nó có chín ngọn núi nên lâu dần được gọi là núi Cửu Tử.
Một hôm đại thi hào Lí Bạch đến đây chơi, nhìn thấy cảnh núi non tuyệt đẹp, khiến tâm tình của thi nhân say mê, liền cùng những người bạn cảm hứng sáng tác nên bài hát “Cải Cửu Tử Sơn vi Cửu Hoa Sơn liên cú tịnh tự”. Cái gọi là “liên cú” nghĩa là mỗi người viết hai câu.
Bài thơ viết:
“Diệu hữu phân nhị khí
Linh sơn khai cửu hoa
Tằng tiêu át trì nhật
Bán bích minh triêu hà
Tích tuyết diệu âm hác
Phi lưu phún dương nhai
Thanh oánh ngọc thụ sắc
Phiếu miểu vũ nhân gia”
Tạm dịch:
Huyền diệu chia hai khí
Núi thiêng mở Cửu Hoa
Tầng cây mặt trời khuất
Núi non sáng mây màu
Bóng tuyết chiếu hang hốc
Vách núi dòng nước phun
Cây ngọc long lanh sắc
Cánh chim bay nhà xa
Ca khúc đẹp dễ thuộc, nhanh chóng trở nên phổ biến trong giới trẻ văn học thời Đường.
Từ đó, núi Cửu Hoa trở nên nổi tiếng. Cái tên Cửu Tử Sơn dần phai nhạt. Núi Cửu Hoa, núi Phổ Đà, núi Nga Mi và núi Ngũ Đài là bốn ngọn núi nổi tiếng của Phật giáo Trung Nguyên, là Đạo trường của Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát. Đạo trường trong Phật giáo có nghĩa là nơi một người tu hành đắc Đạo. Và 4 Đạo trường này cũng tượng trưng cho bốn nguyên tố lớn: đất, nước, lửa và gió.
Điều bí ẩn là trong Phật giáo Trung Quốc rất ít Bồ Tát xưng là vương. Địa Tạng Bồ Tát từ tiếng Phạn dịch trực tiếp là “Khất xoa để bách bà” (Kṣitigarbha). “Địa Tạng” trong chữ Hán có ý nghĩa là an nhẫn bất động như đất lớn, suy nghĩ tĩnh sâu như bí tạng. Tức là có tâm đại nhẫn và trí huệ cao thâm. Nhưng sau khi lưu truyền lâu dài, chữ “vương” đã được thêm vào, gọi là “Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Đạo lý ở đây là gì?
Hoàng tử Tân La
Trong thời kỳ Khai Nguyên của nhà Đường, một con thuyền đến gần Mã An Sơn ở hạ lưu sông Dương Tử, nhưng không lâu con thuyền bị gió lớn thổi vào bờ và mắc cạn. Một thanh niên và một con chó xuống thuyền, chỉ thấy người thanh niên này có thân hình cao lớn, trang phục không phải phong cách của Trung Nguyên.
Khi anh nói mới biết anh không phải người nhà Đường, mà là người Tân La (Silla), tên là Kim Kiều Giác (Kim Gyo-gak).
Vào đầu thế kỷ thứ 7, bán đảo Triều Tiên ở thế chân vạc Cao Câu Ly, Bách Tế Hòa và Tân La thời Tam Quốc Triều Tiên. Trong ba chân, Tân La lúc đầu là yếu nhất, nhưng Silla tích cực nhận viện trợ nước ngoài, liên hợp Đại Đường.
Từ năm 660 đến năm 668, liên tiếp chinh phục Bách Tế Hoà và Cao Câu Ly, sau đó Tân La và nhà Đường đấu tranh giành quyền kiểm soát bán đảo Triều Tiên. Đại chiến Đường – La nổ ra kéo dài 6 năm, cuối cùng đạt được hòa giải. Tân La triều cống nhà Đường. Đồng thời quân Đường rút khỏi bán đảo Triều Tiên, nhưng giữ được vùng đất Liêu Đông vốn thuộc về Cao Câu Ly, lấy sông Áp Lục làm ranh giới.
Sau khi Đường – La hòa giải, Tân La thực thi cải cách toàn diện, noi theo phương thức quản lý và văn hóa của Đại Đường. Phật giáo hưng thịnh vào đời Đường, vì vậy Phật giáo trở thành tín ngưỡng phổ biến nhất ở Tân La. Mỗi năm rất nhiều các tăng nhân Tân La tới Trung Thổ học Phật Pháp.
Triều đình Tân La là tấm gương tôn sùng Phật giáo. Nhiều thành viên của hoàng gia là các Phật tử chân thành. Và Kim Kiều Giác là một trong số họ. Ông là vị vua thứ 35 của Tân La, họ hàng trực tiếp của Cảnh Đức Vương Kim Hiến Anh.
Nhưng chính xác mối quan hệ trực hệ này tới mức độ nào? Giới sử học vẫn mãi tranh luận. Một số học giả Trung Quốc cho rằng Kim Kiều Giác là con trai của em trai vua Cảnh Đức, cũng chính là cháu trai của vua Cảnh Đức. Một giải thích khác lại nói rằng ông là con trai của vua Cảnh Đức.
Bộ chính sử đầu tiên của bán đảo Triều Tiên, “Sử ký Tam Quốc”, được viết vào 500 năm sau khi Kim Kiều Giác tạ thế. Phần giới thiệu về Kim Kiều Giác cũng không rõ ràng, vì vậy việc ông là con trai hay cháu trai của Vua Cảnh Đức vẫn chưa được làm rõ. Nhưng thân phận vương tử hoàng tộc Tân La của ông thì không sai.
Theo ghi chép lịch sử, Kim Kiều Giác tướng mạo trông hung dữ nhưng tâm địa thiện lương, hơn nữa có sức mạnh vô tỷ, có thể một chọi mười. Dù lớn lên trong hoàng tộc, nhưng đối với vinh hoa phú quý, quyền lực hay những thứ như công lao chiến trường, ông đều không quan tâm chút nào.
Cuối cùng vào năm Kim Kiều Giác ngoài 20 tuổi, ông mang theo con chó của mình, cùng đủ lương khô và phí đi đường, lặng lẽ rời khỏi nhà. Đích đến cho chuyến đi của ông là Đại Đường, bởi vì ông đã nghe nói rằng nơi đó có kinh Phật do đại sư Huyền Trang mang từ Ấn Độ về.
Kim Kiều Giác ngồi thuyền ra khơi từ cảng Incheon, đầu tiên đi về phía nam qua Hoàng Hải, từ cửa sông Dương Tử ngược dòng tiến vào Đại Đường. Chuyến đi hầu như khá thuận lợi, nhưng khi thuyền đi đến vùng Mã An Sơn, tỉnh An Huy, do chưa quen với nước, lại có gió to, tàu bị mắc cạn.
Kim Kiều Giác không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ thuyền và lên bờ, đi đường bộ. Dọc đường hỏi tìm kinh Phật, tìm nơi thanh tịnh tu tập. Đầu tiên, ông tu hành tại Giả Sơn ở Vu Hồ, tỉnh An Huy.
Sau một thời gian sống ở đó, thấy rằng hình dạng của núi không đúng, bởi vì nhìn từ bầu trời, Giả Sơn giống như chín con rồng bay ra ngoài, chứ không phải thu vào trong. Kim Kiều Giác cảm thấy rằng khí trường này không phải là nơi lý tưởng cho tu hành. Ông dắt theo chú chó của mình, rời Giả Sơn và tìm kiếm khắp nơi. Cuối cùng ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy, đã tìm thấy núi Cửu Hoa tú lệ.
Tu hành ở núi Cửu Hoa
Kim Kiều Giác nghĩ rằng, đây là nơi ở lý tưởng dừng chân. Ông tìm thấy một hang động bên sườn núi, còn có một tảng đá lớn bằng phẳng bên cạnh hang động, cách tảng đá không xa có một dòng suối trong vắt. Kim Kiều Giác cảm thấy rất hài lòng, liền chuyển vào hang động này. Ông đã ở lại đây vài năm.
Lúc này, con chó đã già và chết, được Kim Kiều Giác chôn gần hang động. Sau đó, trên tảng đá này nơi Kim Kiều Giác tu hành, người ta xây dựng một ngôi chùa, gọi là Đông Nhai thiền tự.
Một ngày nọ, Kim Kiều Giác đang ngồi thiền trên một tảng đá, đột nhiên, tôi cảm thấy rất đau ở một bên đùi. Ông mở mắt ra, hóa ra là bị một loài côn trùng độc cắn. Ngay lập tức chân ông sưng vù lên.
Nhưng Kim Kiều Giác vẫn bất động, nhẫn chịu cơn đau và tiếp tục nhắm mắt thiền định. Chợt ông nghe tiếng bước chân nhẹ. Đây là vùng đất hoang sơ, rất hiếm có người. Ông mở mắt ra, hóa ra là một người phụ nữ trẻ. Ông thấy người thiếu nữ trẻ đẹp lại cúi đầu hành lễ trước mình nói: “Tiểu nhi vô lễ, xin dùng nước suối tạ lỗi tiên sinh”.
Nói xong cô gái liền biến mất. Kim Kiều Giác cảm thấy bối rối, đột nhiên tìm thấy một vết nứt trên những tảng đá xung quanh, và nước suối trong tuôn ra ào ạt. Khi nước suối chảy qua đùi, miệng vết thương sưng đỏ tự nhiên khép lại.
Về sau, người ta gọi thiếu nữ này là “Thần núi Cửu Tử”. Nước suối này có tên là “Long nữ tuyền”.
Những năm trong núi yên tĩnh và tốt đẹp chẳng mấy chốc đã qua 10 năm. Một hôm có một nhóm thanh niên văn chương đến núi Cửu Hoa. Họ cười nói dọc đường, trèo qua các ngọn núi, họ thở hổn hển khi đến một tảng đá trải rộng. Phóng tầm mắt, mây trắng mờ sương, núi mờ mờ ảo áo phía xa. Ngắm khung cảnh đẹp như tranh vẽ này, họ như muốn làm thơ.
Bất chợt một người trong nhóm có đôi mắt tinh tường phát hiện bên suối một chiếc kiềng ba chân đổ nát. Mọi người chạy qua lật cái kiềng lên, bên trong chứa đầy gạo trộn với đất sét trắng. Mọi người nhìn nhau băn khoăn không biết trên những ngọn núi cao ngất này lại có người sinh sống, lại còn lấy gạo hoặc đất để ăn. Họ lần theo dấu chân trong hang động gần đó và tìm thấy Kim Kiều Giác đang đả toạ nhập định. Lúc này, y phục của ông đã thủng lỗ chỗ nhưng ông vẫn an toạ bất động, thần thái an bình, tường hoà.
Lúc đầu, nhóm người không biết Kim Kiều Giác còn sống hay đã chết, họ chạm vào ông hai lần, và Kim Kiều Giác khoan thai xuất định. Nhóm người thấy ông vẫn còn sống, rất kinh ngạc. Rồi thử nói vài câu với ông, họ mới biết hóa ra người ngồi trước mặt là Hoàng tử Tân La.
Nhóm người rất cảm động, không ngờ trên thế gian này vẫn có bậc cao tăng nước ngoài không màng danh lợi, không quản vạn dặm xa xôi tới Trung Thổ để cầu Pháp tu hành. Ngay tại hiện trường lúc đó có người đã tôn Kim Kiều Giác làm thầy.
Sau đó, tin tức về việc trên núi Cửu Hoa có cao tăng được lan truyền, nhiều người đến núi Cửu Hoa theo Kim Kiều Giác. Dần dần số đệ tử của Kim Kiều Giác ngày càng đông. Mọi người chen chúc trên Đông Nham, lương thực không đủ. Kim Kiều Giác liền cho các đệ tử của mình trộn một loại đất sét trắng của địa phương vào nấu cùng gạo, rồi mọi người ăn.
Truyền thuyết về việc trên Cửu Hoa Sơn có cao tăng cũng dần truyền đến tai một người giàu có ở địa phương tên là Mẫn Công. Toàn bộ núi Cửu Hoa là tài sản riêng của ông ấy. Mẫn Công là một người đàn ông tinh tế, vốn thừa hưởng truyền thống thơ ca và nghi lễ nhiều đời. Đồng thời, ông cũng là một cư sĩ tín ngưỡng Phật Pháp. Ông thường dùng tiền vào sửa miếu xây chùa, tổ chức các buổi bố thí tại nhà, mời các cao tăng đến thuyết pháp.
Khi ông Mẫn nghe nói ở trong lãnh thổ của mình có cao tăng như vậy tất nhiên ông rất xúc động. Ông vui mừng dắt theo đứa con trai duy nhất đến Đông Nham để tìm hiểu. Nhưng khi nhìn thấy vị cao tăng, phú ông vô cùng thất vọng. Cao tăng này tướng mạo thật xấu xí, khó coi, lại còn hốc hác và rách rưới, nói cũng không lưu loát. Lắng nghe kỹ giọng nói, mãi vẫn là giọng nước ngoài. Mẫn viên ngoại rất thất vọng. Bình thường các cao tăng mà ông Mẫn đã tiếp xúc đều là những người thông tuệ, giảng Pháp không ngừng. Vì vậy, Mẫn viên ngoại khá thất vọng.
Nhưng dù sao ông và con cũng đã tới, nên Mẫn Công rất khách khí hỏi: “Cao tăng, tôi muốn quyên tặng ngài một mảnh đất. Tôi không biết cao tăng cần nơi rộng lớn như thế nào?”.
Kim Kiều Giác mỉm cười và nói rằng ông muốn một vùng đất rất rộng, không biết Mẫn Công có sẵn lòng cho đi không. Khi nghe thấy điều này, Mẫn Công cảm thấy khó chịu hơn. Vì vậy Mẫn Công vỗ ngực nói: “Cao tăng cứ yên tâm đi, toàn bộ Cửu Tử Sơn là của tôi. Tôi chắc chắn có thể đáp ứng yêu cầu của ngài”.
Kim Kiều Giác lấy áo cà sao từ trong hang động ra và nói: “Những nơi chiếc áo cà sa này bao phủ sẽ là nơi tôi muốn”.
Lần này không chỉ Mẫn Công, mà tất cả các đệ tử đều không nói nên lời. Họ đều bối rối không biết sư phụ có nhầm lẫn không. Một chiếc áo cà sa thì rộng được bao nhiêu? Đến lúc này, trong tâm Mẫn viên ngoại càng tin chắc vào phán đoán của mình rằng đây không thể là một vị cao tăng.
Nhưng những gì đã xảy ra tiếp theo khiến tất cả mọi người không ai nói nên lời.
Mọi người chỉ thấy Kim Kiều Giác tung chiếc áo cà sa lên không trung. Đột nhiên một mảnh bay lên trời, một đám mây nhiều màu sắc hình chiếc áo cà sa nổi lên trên bầu trời, bao phủ toàn bộ núi Cửu Tử. Các đệ tử thấy sư phụ có thần thông như vậy, đều vui mừng, cổ vũ.
Chứng kiến cảnh tượng này, Mẫn Công như tỉnh khỏi giấc mộng, hóa ra là chân nhân bất lộ tướng. Con trai của Mẫn Công đã bái Kim Kiều Giác làm thầy ngay tại chỗ, pháp hiệu là hoà thượng Đạo Minh.
Mẫn viên ngoại thực sự giữ lời, đã giao cho toàn bộ khu vực núi Cửu Tử cho Kim Kiều Giác. Kim Kiều Giác dẫn các đệ tử của mình, xây chùa trên núi, gọi là Chùa Hoa Thành.
Sau đó, Mẫn Công thu xếp xong số tài sản nơi nhân gian, các mối quan hệ họ hàng và những việc trần tục khác, ông đã bái con trai mình là hoà thượng Đạo Minh làm thầy, trở thành đồ tôn của Kim Kiều Giác. Ngày nay, ở trong chùa Hoa thành vẫn có thể thấy tượng của hai cha con Mẫn Công.
Sau này Hoa Thành trở thành một ngôi chùa nổi tiếng khắp gần xa, ngày càng có nhiều tăng nhân đến núi Cửu Hoa để theo Kim Kiều Giác. Cũng có nhiều tăng nhân Tân La, từ quê hương của Kim Kiều Giác cũng vạn dặm đường xa đến tận chùa Hoa Thành bái Kim Kiều Giác làm thầy.
Một hôm có hai vị khách đặc biệt tới chùa Hoa Thành. Phong cách trang phục thấy như là đến từ Tân La, nhưng chất liệu vải sang trọng, đắt tiền, trông không giống người bình thường. Hai người này nói muốn tìm Kim Kiều Giác.
Lúc này, Kim Kiều Giác đã là đại sư, môn đồ của ông đã rất nhiều và ông rất được tôn trọng. Người bình thường không dám gọi tên ông một cách tùy tiện. Vị tăng nhân chuyên tiếp đón khách tới chùa thăm viếng nghe vậy có phần không vui, chỉ chiếu lệ nói với họ rằng hiện tại sư tôn không có ở trong chùa, trước hết họ cần chờ đợi.
Ai ngờ hai người này không khách khí, thậm chí không đợi sự đồng ý của tăng nhân, chạy đến thiền phòng ở sân sau, tìm khắp xung quanh. Khi họ mở một căn phòng, đột nhiên thấy Kim Kiều Giác đang giảng kinh cho một số đệ tử. Hai bên đều sững sờ khi gặp nhau. Kim Kiều Giác thốt lên gọi cậu. Hai vị khách quý đến từ Tân La định thần lại nhìn, mới nhận ra người đàn ông tiều tuỵ, toàn thân mặc áo cà sa là cháu trai của họ Kim Kiều Giác.
Hai người nhìn thấy đứa cháu từng hưởng tất cả vinh hoa phú quý, hiện giờ như thế này, họ rất đau lòng, rớt nước mắt. Họ nắm lấy tay Kim Kiều Giác và nói: “Cháu, hãy về với chúng ta đi, ở đây khổ quá”.
Kim Kiều Giác mỉm cười và an ủi hai người thân. Sau đó, hai người cậu của được thu xếp đưa vào một căn phòng, khi có thời gian ông liền tới giảng giải Phật Pháp cho hai cậu.
Ban đầu hai người cậu ở trong chùa Hoa Thành nói họ chỉ một tháng sẽ rời đi. Nhưng Kim Kiều Giác đã giữ họ lại 2 tháng, 3 tháng. Nửa năm sau, bên cạnh Kim Kiều Giác có thêm hai đệ tử nữa đến từ Tân La, họ tên là Chiêu Hữu và Chiêu Phổ – là hai người cậu của ông.
Đệ tử sau này của Kim Kiều Giác đã xây một ngôi chùa nhỏ ở chân núi phía bắc núi Cửu Hoa cho hai người cậu của ông. Ngôi chùa được gọi là “nhị Thánh điện”. Kể từ đó, Kim Kiều Giác sống ẩn cư, ít xuất hiện hơn, tập trung khổ tu.
Địa Tạng Vương Bồ Tát
Ban ngày, ông giảng kinh giải Pháp cho đệ tử; vào lúc hoàng hôn Kim Kiều Giác ở trong thiền phòng nhập định. Lúc này xung quanh núi Cửu Hoa hay có âm thanh mờ nhạt giống như các dụng cụ tra tấn địa ngục. Thường có người còn nghe thấy như tiếng kêu rên của tù nhân trong địa ngục.
Khi các đệ tử hỏi sư phụ về điều kỳ lạ này, Kim Kiều Giác chỉ trả lời bằng một câu kệ:
“Chúng sinh độ tận
Phương chứng bồ đề
Địa ngục bất không
Thệ bất thành Phật”
Tạm dịch:
Độ hết chúng sinh
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục chưa trống
Thề chưa thành Phật
Đây là đại nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Kể từ đó, Kim Kiều Giác là hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát dần dần lan rộng.
Một ngày tháng 7 năm 794 sau Công nguyên, Kim Kiều Giác lúc này đã 99 tuổi, đột nhiên gọi tất cả đệ tử vào chính điện. Sau khi giải thích kinh điển và giải thích Pháp cho đệ tử lần cuối, chỉ thấy ông ngồi khoanh chân xếp bằng, mỉm cười, dần dần nhắm mắt và viên tịch.
Lúc này chuông lớn trong chùa rơi xuống đất không một tiếng động, xung quanh chùa cũng bất ngờ vang lên tiếng kêu của bầy chim. Hóa ra xung quanh chùa, không biết từ khi nào, rất nhiều bầy chim đã tập hợp tại đây. Các môn đệ nén sự đau buồn, đưa nhục thân của sư phụ vào chiếc vạc lớn bằng đá.
Ba năm sau họ lại mở vạc ra, phát hiện nhục thân của Kim Kiều Giác vẫn giống như lúc còn sống. Màu sắc vẫn như cũ mà không có bất kỳ hư hại nào. Và khi di chuyển hài cốt của ông, xương va chạm thực sự tạo ra âm thanh như kim loại va chạm. Sau đó, các đệ tử dán các lá vàng lên cơ thể không bị mục của sư phụ, rồi đắp đất sét vàng để làm tượng Phật bằng vàng, ngồi phía nam, hướng về phía bắc và được thờ cúng trên núi Cửu Hoa.
Cơ thể không bị mục, xá lợi và hồng hoá là ba hiện tượng kỳ diệu trong Phật giáo, cũng là một bí ẩn mà khoa học hiện đại chưa bao giờ lý giải được. Từ xưa tới nay, có hàng triệu cao tăng ở Trung Thổ được chôn cất theo cách này, nhưng có rất ít người vẫn còn nhục thân không bị mục.
Trong chùa Thạch Kinh ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên có cơ thể bất hoại của Thiền sư Sở Sơn. Thiền sư Huệ Năng, gần với thời đại của Kim Kiều Giác, cũng để lại nhục thân bất hoại tại Tào Khê, Quảng Đông. Tứ Xuyên, Quảng Đông và núi Cửu Hoa ở An Huy đều là vùng nóng ẩm. Rất có thể bên trong thân thể những cao tăng tu hành có thành tựu này đã phát sinh sự biến hoá quan trọng bên trong nào đó, từ đó ức chế hệ vi khuẩn trong cơ thể, làm cho vi khuẩn không thể phân giải cấu tạo cơ thể con người sau khi chết, thậm chí ức chế hoạt động của protease và lysosome, ngăn chặn sự phân hủy tự nhiên của nhục thân. Thân thể như thế trở thành nhục thân bất hoại.
Tất nhiên, quá trình chuyển hoá cụ thể diễn ra như thế nào tới nay vẫn chưa có giải đáp. Và do tình cảm tôn giáo, cũng không có cách nào để làm giải phẫu và hoá nghiệm thông thường với những di thể này.
Kim Kiều Giác được Phật giáo Trung Quốc coi là một trong những hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát, giống như hoà thượng Bố Đại được coi là hóa thân của Bồ Tát Di Lặc. Vì họ của ông là Kim nên ông còn được gọi là Kim Địa Tạng. Con chó cưng theo Kim Kiều Giác đến núi cửu Hoa, trong truyền thuyết trở thành vật cưỡi của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nó là Thần thú thông linh nhất trong địa phủ, có thể dễ dàng phân biệt nhân tâm thị phi.
Báo thân và hóa thân là một khái niệm rất khó hiểu trong Đại thừa Phật giáo. Ý nghĩa của hoá thân cơ bản là nói rằng Địa Tạng Bồ Tát sớm đã thành Phật, bất sinh bất diệt, ở trong chiều không gian vũ trụ mà người thường chúng ta không thể tưởng tượng, không cách nào hiểu được. Nhưng để giác ngộ chúng sinh trầm mê trong dục vọng, Ngài đã triển hiện ra hình tượng của Kim Kiều Giác trước mắt thế nhân, cũng sinh ra và lớn lên như bao người. Ngài đã lấy cả đời tu luyện của bản thân để chỉ cho thế nhân con đường giải thoát.
Nhìn thấy Kim Kiều Giác cũng giống như mọi người, nhưng trên thực tế ông khác với những người khác, không luân hồi. Nhưng Kim Kiều Giác lấy cả đời tu hành của mình, ấn chứng tâm tính và cảnh giới của Địa Tạng Bồ Tát. Cũng có thể nói ông là người đã tu thành Địa Tạng Bồ Tát.
Trong lục đạo luân hồi, địa ngục là đau khổ nhất. Thệ nguyện của Địa Tạng Bồ Tát là cứu độ chúng sinh trong địa ngục. Nguyện này lớn và sâu, thực tế là vừa khó khăn và nguy hiểm nhất. Dũng khí và từ bi đó có thể nói là đứng đầu trong các Bồ Tát. Đây có lẽ là lý do tại sao Ngài được các tín đồ tôn làm Bồ Tát Vương.
Minh An (NTDVN) biên dịch Theo Wenzhaostudio