Tân Thế Kỷ – Lông mày của vua Nghiêu có tám màu, mắt của vua Thuấn có hai con ngươi màu đen. Tai của Đại Vũ đế có ba lỗ tai, hình dạng rất kỳ dị. Hai cánh tay của vua Thành Thang tổng cộng có bốn khuỷu tay, khác với người thường. Tuy có kỳ nhân dị tướng nhưng họ lại là những bậc Đế Vương anh minh.
Thuấn là thuỵ hiệu, nghĩa là bậc Thánh nhân từ
Theo “Sử ký”, Thuấn là hậu duệ của đế Chuyên Húc, cha ông là Cổ Tẩu, mẹ là Ốc Đăng. Thuấn thực ra là một thụy hiệu, “Thụy Pháp” viết: “Nhân thánh thịnh minh viết Thuấn”. Nghĩa là cổ nhân căn cứ vào đức hạnh nổi bật khi còn sống của vị Đế Vương mà phong cho cho ông thụy hiệu là Thuấn khi qua đời. Chính là chỉ Thánh minh nhân đức của ông, xứng danh là Thánh đức Đế Vương.
Kỳ thực quan niệm đạo đức làm người lấy hiếu đễ trung tín làm cốt lõi mà người Trung Quốc đã làm theo hàng nghìn năm qua chính là do Thuấn Đế truyền lại. Ông là một hình mẫu về lòng hiếu đễ trong lịch sử Trung Quốc, hai mươi tuổi đã nổi tiếng khắp thiên hạ về lòng hiếu đễ. Khổng Tử đã kế thừa và phát huy Thánh đức của ông, trở thành Nho gia, và đương nhiên có đủ tư cách trở thành văn hóa chính thống cho người đời sau về tiêu chuẩn làm người. Mọi thứ đều có nguồn gốc xa xưa của nó.
Tên cha mẹ đặt cho ông thực ra là “Trùng Hoa”, truyền thuyết kể rằng chính vì con mắt ông có hai con ngươi nên mới đặt tên như thế. Ngoài ra, hình thể của Thuấn có nhiều nét kỳ lạ: lòng bàn tay có vân như chữ “Bao”(khen ngợi), mặt đen và vuông, tướng rồng miệng lớn.
Ngu Thuấn chế tác gốm Đông Di bài học đạo đức cho người kinh doanh
Tương truyền, Ngu Thuấn còn cống hiến to lớn cho sự phát triển đồ gốm Trung Hoa. Vì kế sinh nhai, Thuấn từng chế tác đồ gốm tại thôn Gia Phùng ven sông Hoàng Hà. Sử sách có ghi chép lại “Thuấn chế tác gốm, tinh tế mỹ lệ vô cùng”. Thuấn chế tác gốm với công nghệ tinh túy, dáng hình mỹ lệ, giá cả phải chăng mà lại bền chắc. Thuấn chú trọng lựa chọn vật liệu, nghiêm túc trông lửa, nhào nặn đến nơi đến chốn. Cho nên đồ gốm của ông rất được mọi người ưa chuộng. Rất nhiều người làm đồ gốm đều muốn thỉnh giáo Thuấn. Thuấn cũng vui vẻ truyền thụ kỹ thuật cho họ. Do Thuấn có đức, rất nhiều người mua đồ gốm không quản đường xá xa xôi đều tìm đến, tranh nhau mua. Nhưng Ngu Thuấn trước sau không hề cẩu thả, thậm chí giá thành cũng không chịu nâng lên, chỉ cần lợi nhuận 10 phần lãi 1 (10%) mà thôi.
Lúc đó, Thuấn lần lượt phổ biến kỹ thuật làm gốm ra khắp vùng Bắc Nam sông Hoàng Hà. Kể từ khi người chế tác gốm xuất hiện ngày càng nhiều ở khu vực lân cận Đông Di, dẫn đến hàng hóa cung không đủ cầu, thợ làm gốm do tham lợi, bắt đầu bòn rút nhân công, vật liệu, nhào bùn không đến nơi đến chốn, rút ngắn thời gian nung, khiến gốm giòn yếu, dùng chưa được bao lâu đã vỡ vụn. Thợ làm gốm do tiết kiệm nhân công, thời gian, vật liệu mà thu được món hời lớn.
Sau khi nghe nói chuyện này, để hướng dẫn thợ làm gốm, đồng thời cũng vì lợi ích của bách tính, Thuấn đến đất Vệ mở một xưởng làm gốm. Tại đây ông nghiên cứu tỉ mỉ kỹ thuật tạo phôi và chế tác gốm. Thuấn sử dụng kỹ thuật chế tác, nung gốm tiên tiến, mong chế tác ra loại gốm bền chắc. Trên bề mặt còn trang trí hoa văn mỹ lệ, miệng gốm từ to thành nhỏ dần, được mọi người đón nhận. Thương nhân tranh nhau mua gốm của Thuấn.
Tương truyền, do mọi người tranh nhau đổ xô mua gốm của Thuấn, khiến cho những thợ gốm trước kia ai nấy làm ăn ế ẩm. Thuấn nói với mọi người:“Các vị cho rằng tôi đến tranh giành mối làm ăn của các vị chăng? Tôi có quyền chế tác, nhưng quyết định mua là ở mọi người. Mọi người không muốn mua tôi cũng không cưỡng ép. Mọi người đến mua, tôi cũng không thể từ chối được. Các vị thử nghĩ xem, cùng là đồ gốm, sao mọi người không muốn mua gốm do các vị chế tác, mà muốn mua gốm do tôi chế tác? Nguyên cớ do đâu?” Mọi người trả lời rằng: “Gốm của ông rất bền, giá lại rẻ. Gốm của chúng tôi giòn xốp, giá lại đắt. Cho nên mọi người mua gốm của ông, không mua gốm của chúng tôi nữa. Đây há chẳng phải ông có ý đối nghịch, tranh giành mối làm ăn với chúng tôi hay sao?”
Thuấn nói rằng: “Đối với các vật dụng hàng ngày của con người, các vị nhất định không mua các sản phẩm chất lượng thấp. Vậy thì tôi sao lại có thể làm ra thứ đồ gốm giòn dễ vỡ đó mang đi bán cho người khác”. Mọi người nói: “Trước nay mọi người đều mua đồ gốm của chúng tôi. Từ khi ông đến, họ không mua sản phẩm của chúng tôi nữa. Do đó nguyên nhân là tại nơi ông chứ không nằm ở bình gốm của chúng tôi”. Thuấn đáp: “Điều này không đúng. Người dân mua gốm của các vị là bởi họ không có lựa chọn nào khác nữa. Họ buộc phải mua sản phẩm của các vị chứ không phải vì họ thích mua chúng. Đơn cử như trong suốt những năm vụ mùa thất bát, người dân phải ăn cám và ăn cỏ, nhưng không phải vì họ muốn vậy, mà là vì họ buộc phải làm như vậy. Hiện tại các vị đem những đồ gốm dễ vỡ của các vị cấp cho người ta, há chẳng phải các vị đang làm điều tương tự như cưỡng ép họ ăn cám bã và rễ cây sao. Điều đó chẳng phải bất nhân hay sao?” Những người thợ gốm đáp lời: “Chúng tôi là những người thợ thủ công sống nhờ kỹ năng của mình. Chúng tôi chỉ cần biết kiếm tiền và trở nên giàu có. Chúng tôi không quan tâm điều đó có phải bất nhân hay không!”Thuấn nói: “Đó không phải là như vậy. Có chữ nhân ở trong chữ phú. Nếu như các vị bất nhân, nơi đâu các vị có thể tìm kiếm sự giàu có?” Nghe được điều này, các thợ gốm háo hức muốn biết vì lý do gì, vì vậy Thuấn hướng dẫn thợ gốm, nói rằng: “Sự khác biệt giữa con người và động vật chính là ở chữ nhân. Ta chẳng lừa người, họ hà cớ gì mà lừa ta. Nếu ta lừa người, họ tất sẽ lừa ta. Để trở nên giàu có, các vị đã lừa dối người khác bằng cách bán những bình gốm dễ vỡ. Tuy nhiên, mọi người đều muốn kiếm tiền và trở nên giàu có. Nếu mọi người trong tất cả các ngành nghề suy nghĩ như các vị và làm ra những sản phẩm tồi tàn có chất lượng thấp, tôi hỏi các vị rằng liệu các vị có thể kiếm tiền được chăng? Những gì các vị làm chỉ là đồ gốm, và các vị phải mua vô số mặt hàng khác từ những người khác. Các vị chỉ có một sản phẩm để cạnh tranh với nhiều sản phẩm khác, vì vậy các vị có thể chiến thắng như thế nào? Thậm chí nếu các vị kiếm được lợi nhuận nhiều hơn nữa nhờ số đồ gốm, các vị cũng không biết các vị phải chi tiêu bao nhiêu tiền cho các sản phẩm khác! Bất nhân bất phú, lẽ gì mà các vị lại không minh tỏ điều này?”
Những người thợ gốm hiểu ra và nói: “Đúng vậy, trong nhiều năm qua, nhiều sản phẩm bán ở chợ càng ngày càng thiếu bền chắc, chính là bởi nguyên nhân này”. Sau đó, những thợ gốm này đã học theo cách chế tác những đồ gốm tốt của Thuấn và tự mình kinh doanh một cách trung thực. Họ chú ý đến đồ gốm của mình hơn là làm ra những sản phẩm chất lượng thấp. Đồ gốm của họ lại được chế tác chắc chắn và có độ bền cao.
Đông Di hoang dã, dân tình bạc bẽo. Hiện tượng kinh doanh đương thời vì theo đuổi lợi nhuận mà chế tác các sản phẩm chất lượng kém có rất nhiều. Nhưng thánh nhân trị quốc“Đức vi tiên, trọng giáo hóa” (Lấy đức làm đầu, coi trọng giáo hóa), chứ không lấy luật pháp hà khắc làm gốc. Thợ chế tác gốm nhờ sự giáo huấn và tấm gương của Thuấn mà tự quy chính lại bản thân, diện mạo trong vùng cũng dần trở nên thuần hậu, không cần phải răn dạy nhiều lần, càng không phải cưỡng chế áp đặt, chỉ cần truyền tâm pháp, người người ai cũng trọng đức hành thiện, vô vi mà trị thiên hạ.
Người nhà có tâm địa ác độc, Thuấn lại càng thêm hiếu đễ
Khi Thuấn được hai tuổi, mẹ ông qua đời, cha lấy vợ kế. Người mẹ kế có một con trai và một con gái, người con trai tên là Tượng; người mẹ kế thường xuyên đánh đập, mắng nhiếc Thuấn và còn xúi giục cha đánh phạt ông vô cớ, ông sống những ngày ăn đói mặc rét.
Khi Thuấn khoảng mười tuổi, có một người tu Đạo tên là Vụ Thành Tử đã chủ động dạy ông đọc sách. Mẹ kế không muốn cho ông đi học, vì vậy ông chăn bò cho nhà hàng xóm, đồng thời theo Vụ Thành Tử học tập từ đọc sách, viết chữ, làm người cho đến thiên văn địa lý và đạo lý trị quốc bình thiên hạ. Điều này nói rõ một vấn đề, thầy của bậc đế vương cổ đại là người tu Đạo, Thuấn Đế cuối cùng cũng tu Đạo mà thành. Đạo hiếu đễ và Đạo trị quốc mà ông truyền lại kỳ thực có nguồn gốc từ văn hóa tu đạo cổ xưa.
Theo sử sách, cha Thuấn rất gàn, không phân biệt đúng sai, lại mù cả hai mắt, mẹ kế thì ngu muội và độc ác tàn nhẫn, còn người em trai cùng cha khác mẹ tên là Tượng thì hung dữ kiêu ngạo ngỗ ngược, cực kỳ ích kỷ và bụng dạ nham hiểm. Cả ba người đều muốn diệt trừ Thuấn.
Thuấn không bao giờ oán giận, ngược lại còn rất hiếu thảo và hữu ái (đó chính là cái đạo kính nhường giữa anh em), cố gắng hết sức mình để giải quyết tốt mối quan hệ gia đình. Dù bị cha mẹ ghét bỏ nhưng ông vẫn không mất đi đạo làm con. Khi bị cha đánh bằng gậy nhỏ thì ông đứng yên; khi cha dùng gậy lớn đánh, hay người nhà muốn hại ông, nguy hiểm đến tính mạng thì ông liền kịp thời lẩn trốn (không để cha mẹ trở thành bất nghĩa. Ngày nay nói người xưa giảng nào là vua muốn bề tôi chết thì bề tôi không thể không chết, kỳ thực đây là sự lừa dối ác ý của Trung cộng, Thuấn Đế đã sớm lưu lại cho đời sau một cách làm cụ thể rằng hiếu không phải là ngu hiếu, trung không phải ngu trung, ai cũng không thể vô cớ cướp đi tính mệnh của người khác, bởi vì mạng người liên quan đến Trời, cho dù phụ mẫu hay quân vương cũng không thể đụng đến được, vì vậy Thuấn Đế đã không oán giận cha mẹ mà còn rất hiếu kính đối với họ, còn hiểu được không thể để cha mẹ phạm tội, đây mới là hiếu kính thật sự). Khi gia đình có việc gì cần giúp đỡ, ông luôn ở bên cạnh chăm nom cha mẹ.
Đức của Thuấn Đế giáo hoá thiên hạ
Thấy gia đình không thể dung chứa mình, Thuấn ra ngoài sinh sống. Vì sự rộng lượng và lòng bao dung nhường nhịn của Thuấn nên bất cứ nơi nào ông đến thì nơi đó sau một năm trở thành một ngôi làng, sau hai năm trở thành một thị trấn, và sau ba năm trở thành một thành phố. Mọi người đều nguyện ý sẵn sàng đi theo ông.
Khi Thuấn khai hoang trồng trọt ở Lịch Sơn, có voi lớn xuống núi dùng vòi giúp Thuấn cày xới đất, mọi người đều cảm thấy thần kỳ. Lại thấy chim bay đến giúp Thuấn trừ cỏ dại trong ruộng. Có người đánh nhau tranh giành đất đai, Thuấn đã chủ động nhường mảnh đất màu mỡ mình cày cấy cho người yếu thế, rồi tự đi khai hoang vùng đất cằn cỗi. Dưới ảnh hưởng của Thuấn, vùng Lịch Sơn đã hình thành phong tục nhường nhịn, chung sống hoà thuận với nhau, người đến Lịch Sơn khai hoang trồng trọt ngày càng nhiều, dần dần hình thành một ngôi làng lớn.
Khi Thuấn đánh cá ở Lôi Trạch, cũng có người vì tranh ngư trường mà đánh nhau, ông cũng xử lý theo cách như vậy. Những người ở Lôi Trạch cũng trở nên khiêm tốn nhường nhịn lẫn nhau.
Sách “Thượng Thư – Đại Truyện” viết rằng: “Thuấn không leo mà cao, không đi mà xa”. Đức hạnh của ông cao dày, uy danh tự sinh, danh tiếng vang xa, ông đã có đầy đủ tố chất của bậc đế vương khiến mọi người thần phục.
Hiếu đễ trị gia, trung tín trị quốc
Khi Thuấn ba mươi tuổi, vua Nghiêu tìm kiếm nhân tài có đức trong thiên hạ, Tứ Nhạc liền tiến cử Thuấn. Vua Nghiêu triệu kiến Thuấn. Vua hỏi ông về phương pháp cai trị thiên hạ. Theo “Tuân Tử – Nghiêu vấn”, Thuấn trả lời rằng: “chấp nhất vô thất, hành vi vô đãi, trung tín vô quyện, nhi thiên hạ tự lai”.
Đại ý là người chủ trì quản lý điều hành công việc phải chuyên chú dốc lòng mà không có sai lầm sơ suất, làm việc nhỏ cũng không lơ là, tận tâm tận lực giữ chữ tín mà không chán nản, như thế thì người trong thiên hạ sẽ tự quy thuận, đâu cần những biện pháp đặc biệt để thu hút, khiến người dân quy thuận?
Nghiêu Đế đã để Thuấn trải qua nhiều thử thách, như đảm nhận chức Tư Đồ. Phụ nghĩa, mẫu từ, huynh hữu, đệ cung, tử hiếu, 5 loại luân lí đạo đức này chính là do Thuấn phát triển rộng giáo hóa Ngũ điển mà lưu truyền lại cho đời sau, bất kể là trị gia hay nội chính, ngoại giao ông đều xử lý rất rõ ràng rành mạch, cha mẹ và em trai nhiều lần toan tính làm hại tính mệnh ông nhưng ông vẫn không thay đổi Đạo hiếu đễ, cuối cùng họ đã được cảm hoá, thiên hạ cũng yên ổn hòa thuận. Thế là vua Nghiêu đã truyền ngôi cho ông.
Thuấn thân trong nghịch cảnh, bị cha mẹ đối xử với mình như kẻ thù nhưng vẫn vô cùng hiếu thảo, chịu đựng những gì người thường không thể chịu nổi, lòng hiếu đễ và trung tín mà ông thể hiện đã trở thành cốt lõi của tư tưởng Nho giáo. Ông cũng tự nhiên trở thành hình mẫu đạo đức làm người của đất nước Trung Hoa. Ông là tấm gương của bậc Thánh Vương.
Trong “Sử ký ghi chép về Ngũ Đế” bình luận vua Thuấn như sau: Thuấn cày ở Lịch Sơn, người Lịch Sơn đều nhượng bờ; đánh cá ở Lôi Trạch, người Lôi Trạch đều nhường nhà; làm gốm ở Hà Tân, gốm Hà Tân đều không còn hàng thứ phẩm. Một năm tụ họp, hai năm lập ấp, ba năm thành đô. Nơi đâu Thuấn bỏ công sức, nơi đó đều hưng khởi phong thái lễ nghĩa. Thuấn đi đến đâu mọi người cũng muốn theo. Vậy nên Mã Tư Thiên tán thán rằng: “Thiên hạ minh đức, đều khởi nguồn từ Ngu Thuấn”.
Bàn luận
Kỳ nhân dị tướng, rất nhiều bậc Đế Vương và Thánh hiền ở Trung quốc cổ đại, ngũ quan và tướng mạo của họ đặc biệt rất khác với người thường. Ngoài lông mày tám màu của Nghiêu đế, đôi mắt hai tròng của Thuấn đế, ba lỗ tai của Đại Vũ đế và cánh tay dài của Thương Thang ra thì theo ghi chép của sách cổ, Chu Văn Vương còn có vầng trán cao như rồng và vai rộng như hổ; đỉnh đầu của Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử bị lõm xuống; tay Chu Công vô cùng mềm mại, có thể quay ngược lại để lấy đồ vật. Những vị Thánh hiền cổ đại này không chỉ có ngoại hình đặc biệt kỳ lạ mà còn có phẩm cách cao thượng và được mọi người kính trọng.
Lão Tử, ông tổ của Đạo giáo, tướng mạo cũng khác với người thường. Tương truyền ông có nước da trắng vàng, trán rộng, lông mày rậm mắt to, nhưng lông mày màu vàng, miệng vuông, môi dày, răng thưa, mỗi bên tai có ba lỗ nhỏ và tai thõng xuống đến vai, sống mũi to, bên trong có hai trụ thịt. Lão Tử không chỉ có tướng mạo kỳ dị mà còn có trí huệ cực kỳ thông minh, kiệt tác “Đạo Đức Kinh” 5.000 chữ của ông là kinh điển quan trọng cho việc tu luyện của Đạo gia.
Chân Tâm t/h
Tham khảo: Chánh Kiến, Minh Huệ
Xem thêm:
- Cuộc đời phi thường của Vũ Huấn – người ăn mày xây trường nghĩa học
- Tây Du Ký: Ý nghĩa cái tên Bát Giới và 8 điều Bát Giới vượt qua trong hành trình thỉnh kinh
- Quỷ Cốc Tử: 3 đặc điểm của người lòng dạ đen tối, hãy tránh xa càng sớm càng tốt