Thời gian gần đây, trí tuệ nhân tạo (AI) đã trở thành tâm điểm của cả thế giới. Con người càng lo lắng hơn khi tương lai không xa, AI có thể nô dịch loài người. Nó không hành xử theo đạo đức và nhân tính. Đó chính là dấu chấm hết cho nền văn minh nhân loại thời kỳ này.
Tuy vậy, rất nhiều người cảm thấy tự hào với sự phát triển của con người, của AI và tin tưởng sâu sắc vào một tương lai tươi sáng hơn của bầu trời công nghệ. Thế nhưng, Albert Einstein từng nói: “Hãy thận trọng đừng biến trí tuệ thành Chúa của chúng ta; nó có sức mạnh cơ bắp, nhưng phi nhân tính”.
Vậy đâu mới là nền văn minh đích thực?
Mở đầu cuốn “Những môn đệ của Pythagoras”, Margaret Wertheim, nữ ký giả khoa học nổi tiếng của tờ The New York Times, nêu lên một nhận xét đáng chú ý:
“Thế kỷ thứ 6 trước CN là một bước ngoặt lịch sử trong nền văn minh của nhân loại, bởi nó đánh dấu sự ra đời gần như đồng thời của các nhà tư tưởng thuộc hàng vĩ đại nhất của mọi thời đại. …
Trong khi ở Đông phương, Lão giáo và Phật giáo lo tìm kiếm “con đường giải thoát” (ways of liberation), Khổng giáo lo xây dựng những nguyên lý đạo đức làm nền tảng tinh thần cho xã hội, thì tại Tây phương, một cuộc cách mạng kiểu khác đã xảy ra: Các nhà tư tưởng Hy Lạp bắt đầu từ bỏ những giải thích huyền bí về thế giới xung quanh để chuyển sang tìm kiếm những nguyên nhân vật chất của các hiện tượng tự nhiên”.
Theo Wertheim, ngay từ đầu văn minh Đông phương cổ truyền đã có xu thế thiên về TÂM, thông qua chiêm nghiệm trực giác. Còn văn minh Tây phương có xu thế thiên về VẬT, thông qua quan sát, đo đạc, chứng minh. Nếu TÂM thuộc Âm và VẬT thuộc Dương thì văn minh Đông phương cổ truyền là văn minh trội Âm, văn minh Tây phương trội Dương.
Nhưng xu thế phân cực đã dần dần bị thay đổi do những biến thiên thăng trầm của lịch sử: Thắng lợi áp đảo của khoa học thực nghiệm cùng với chủ nghĩa duy lý trong vài ba thế kỷ gần đây. Đặc biệt sau những thế kỷ các quốc gia Tây phương bành trướng thuộc địa, văn minh Tây phương đã trở thành nền văn minh thống trị trên phạm vì toàn cầu.
Với nội dung ngày càng thiên lệch rõ rệt về văn minh vật chất, văn minh khoa học, văn minh tính toán, văn minh thực dụng: Mọi thứ đều được số hóa, kể cả cái Đẹp.
Đã có một thời người ta tưởng nền văn minh này là duy nhất đúng. Nhưng những bản tin thời sự hàng ngày trên toàn thế giới cho thấy chủ nghĩa thực dụng vật chất đang đẩy con người tới một cuộc sống cạnh tranh ngày càng vội vã, bất an trong đời sống xã hội lẫn nội tâm.
Trong bối cảnh này, ngay tại Tây phương – nơi văn minh vật chất phát triển cực thịnh – đã xuất hiện một xu thế phê phán sự khiếm khuyết của nền văn minh này. Thậm chí kết tội nền văn minh này có thể sẽ dẫn loài người tới chỗ diệt vong nếu không có một cơ chế đủ mạnh để kìm hãm.
Cơ chế kìm hãm đó là cái gì, nếu không phải là nền Minh triết Đông phương cổ truyền vốn lấy TÂM làm giá trị cốt lõi?
Thực tiễn cho thấy đã đến lúc nhân loại cần thức tỉnh để thấy rõ đâu là nền văn minh đích thực: Nền văn minh đích thực phải là sự chắt lọc tổng hòa của hai nền văn minh Đông và Tây. Chính xác hơn mà nói đó chính là sự chắt lọc tổng hòa của hai nền văn minh TÂM và VẬT. Hoàn toàn không phải nền văn minh toàn vật chất như hiện nay.
Cuộc đối thoại giữa hai nền văn minh
Nền văn minh Tây phương vốn dựa trên căn bản nhị nguyên luận (dualism) – phân biệt chủ thể với khách thể. Trong đó chủ thể luôn luôn có xu hướng chinh phục khách thể.
Đó là lý do người Tây phương có xu hướng thích chinh phục và rất giỏi trong chinh phục: chinh phục thiên nhiên (tìm tòi khám phá khoa học, khám phá địa lý,…), và chinh phục thiên hạ (giành giật thuộc địa, phổ biến và truyền bá văn hoá, khoa học, tôn giáo,…). Đó là những sự thật chẳng có gì ngạc nhiên, vì đã được lịch sử chứng minh rõ ràng.
Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ nhiều người trong chúng ta – những người sinh ra trong cái nôi Đông phương – nhiều khi lại không ý thức được giá trị của nền văn minh truyền thống của tổ tiên mình. Do đó sẵn sàng thỏa mãn với sự chinh phục của nền văn minh Tây phương. Mặc nhiên coi đó là nền văn minh toàn cầu.
Nếu nền văn minh Tây phương hiện đại tự nó đã hoàn chỉnh thì có lẽ không có gì để bàn. Vấn đề là ở chỗ nó không hoàn chỉnh, nếu không muốn nói rằng nó còn chứa đựng rất nhiều yếu tố lệch lạc.
Trong khi đó, nền văn minh Đông phương cổ truyền dựa trên căn bản nhất nguyên luận (monism) – chủ thể và khách thể là một: Âm Dương tuy đối lập nhưng hài hoà trong Thái Cực. Do đó có thể thấy ngay rằng tư tưởng Đông phương cổ truyền sẽ hạn chế mọi xu hướng phân cực thái quá của Tây phương.
Gia Cát Lượng thời Tam Quốc ở Trung Hoa có tài chế tạo máy móc và vũ khí chẳng kém gì người La-Mã ngày xưa. Nhưng sau khi dùng hỏa công đốt cháy trong phút chốc hàng vạn quân sĩ của Mạnh Hoạch, ông đã ngửa mặt lên trời mà than rằng việc ác đó sẽ làm giảm tuổi thọ của chính ông. Đó là đặc điểm tư duy Đông phương – giết kẻ thù đến chỗ tuyệt diệt thì cũng chính là giết mình, bởi vạn vật là Một.
Có người phản bác ý kiến này bằng cách viện dẫn ra hàng loạt ông Vua tàn bạo giết người không ghê tay trong lịch sử cổ đại và trung đại Trung Hoa. Nơi được xem là một trong những cái nôi của Minh triết Đông phương cổ truyền, khẳng định rằng Đông phương cổ truyền cũng chẳng có gì đáng phải học tập.
Thiết nghĩ, không ai có thể phủ nhận những sự thật lịch sử. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng các bạo chúa trong lịch sử Đông phương không phải là đại diện của Minh triết Đông phương. Họ chưa bao giờ được lịch sử ca ngợi, thậm chí họ luôn luôn bị coi là những bạo chúa coi thường Minh triết. Đó chính là lý do để Khổng tử chưa bao giờ thành công trong việc thuyết phục các Vua chúa áp dụng kế sách của ông.
Khổng tử trở thành người Thầy của phương Đông nhờ ở Đức. Những tư tưởng hợp Đạo Tự Nhiên của ông đã thấm đẫm vào tầng lớp trí thức uyên bác nhất. Sau đó lan rộng ra khắp bàn dân thiên hạ. Vì thế, khi nói đến việc kết hợp hai nền văn minh Đông + Tây, phải nói rõ đó là sự chắt lọc tổng hoà những giá trị tinh túy của cả hai nền văn minh đó.
Điều quan trọng nhất của Minh triết Đông phương cổ truyền là ở chỗ nó luôn luôn điều chỉnh mọi biến thiên về vị trí cân bằng. Đó là cái gốc Đạo Trung Dung của Khổng – Mạnh.
Đạo Trung Dung chỉ ra rằng mọi biến dịch phải trở về cân bằng ổn định mới thuận Đạo Càn Khôn, bằng không là trái đạo. Khủng hoảng môi trường hiện nay là một biểu hiện điển hình của sự trái đạo, mà trái đạo sẽ dẫn tới nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chính loài người.
Trong khi đó, triết học Tây phương, tuy cũng nói đến quy luật biện chứng “lượng đổi chất đổi”, nhưng thường chỉ mô tả sự biến đổi theo một chiều nhất định – chiều được gọi là “tiến hóa” (evolution). Rất nhiều thứ được cho là tiến hoá: Vũ trụ tiến hoá, sinh giới tiến hoá, loài người tiến hoá, thậm chí cả robots tiến hoá… có cả một thứ chủ nghĩa tiến hoá.
Vì chú trọng thái quá đến khía cạnh tiến hoá một chiều, cái sau phủ định và hơn hẳn cái trước, vì thế văn minh Tây phương thường đẩy sự đua tranh. Tới mức cùng cực, vô giới hạn. Dẫn tới sự cùng kiệt mọi tài nguyên dự trữ, cả tài nguyên thiên nhiên lẫn sức lực của chính con người.
Những điều này đã làm cho Tự Nhiên và xã hội mất cân bằng, dẫn tới khủng hoảng, mất ổn định. Bằng chứng rõ ràng nhất là hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ 20 vừa qua.
Điển hình của chủ nghĩa tiến hoá là Học thuyết Darwin. Năm nay thế giới kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Darwin. Sách vở tôn sùng Darwin như một ông thánh xuất hiện khắp nơi. Nhưng có thật là sinh giới tiến hoá như Darwin mô tả hay không vẫn còn là một dấu hỏi rất lớn gây nên tranh cãi rất nhiều trong nội bộ giới sinh học.
Thực tế tại các nước Tây phương hiện nay có rất nhiều ý kiến khoa học sâu sắc phản bác lại Darwin. Đã chỉ ra những thiếu sót và sai lầm của Darwin.
***
“Mặt yếu” của Minh triết Đông phương cổ truyền là: Không giúp ích trực tiếp trong việc chế tạo ra súng ống, đạn dược, xe tăng, máy bay, tên lửa, bom nguyên tử, v.v. Đó là lý do để chủ nghĩa thực dân làm vương làm bá trong vài thế kỷ qua. Mãi đến giữa thế kỷ 20 mới chấm dứt.
Ngày nay Đông phương đã tiếp thu văn minh Tây phương, và đã vươn lên ngang hàng với Tây Phương về văn minh vật chất. Nhưng tiếc thay, vì quá bận rộn với việc đuổi kịp Tây phương về văn minh vật chất nên Đông phương lại đã và đang quên lãng nền văn minh cổ truyền của chính mình.
Nhu cầu phục hưng nền văn hoá cổ truyền là một nhu cầu bức thiết, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi nền văn minh vật chất trên toàn thế giới dường như đang đạt tới thái cực – khoa học đang tạo ra những sản phẩm “sánh ngang với kỳ công của Thượng Đế”, tức là lúc nền văn minh vật chất đang bộc lộ nguyên hình mặt trái của nó.
Mặt trái của tấm huy chương
Nếu coi nền văn minh Tây phương là một đống huân chương sáng chói thì có lẽ chiếc huân chương khoa học là to nhất, lấp lánh nhất.
Nhưng chính các học giả Tây phương ngày nay là những người thấy rõ mặt trái của tấm huân chương hạng nhất đó hơn ai hết. Tạp chí SIGNS of the Times của Úc tháng 10-1999 viết: “Mọi tấm huân chương đều có mặt trái, mọi đám mây đều có ánh bạc. Những ngạn ngữ này luôn luôn đúng. Khoa học không phải là một ngoại lệ…”.
Vậy mặt trái của tấm huân chương khoa học có hình thù ra sao?
Trong dịp chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ thứ 3 và thế kỷ 21, nhà xuất bản Marshall Editions của Anh đã cho xuất bản một cuốn sách đồ sộ nhan đề “Ideas that shaped our world” (Những tư tưởng định hình thế giới của chúng ta), nhằm tổng kết thành tựu của nhân loại từ thời thượng cổ cho đến tận ngày nay.
Cuốn sách đề cập đến mọi phương diện từ chính trị xã hội đến văn hoá, nghệ thuật, từ khoa học đến triết học, v.v… Đó là một cuốn sách quý mà mọi tủ sách nên có.
Mở đầu phần khoa học, cuốn sách viết:
“Ngày nay chúng ta đang phải chứng kiến một xu thế chống đối lại khoa học. Xu thế này kết tội rằng chúng ta đang lao xuống vực thẳm trong một tương lai chỉ toàn lặp lại những vấn nạn cố hữu của bệnh tật, đói nghèo và chiến tranh. Việc đốt nóng bầu khí quyển, vũ khí hoá học, nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân, bệnh dịch như ebola, AIDS, … tất cả những điều này đều là sản phẩm song hành của khoa học trên con đường phát triển”.
Đúng như Albert Einstein từng nói: “Hãy thận trọng đừng biến trí tuệ thành Chúa của chúng ta; nó có sức mạnh cơ bắp, nhưng phi nhân tính”.
Francois Rabelais đã từng cảnh báo: “Khoa học vô lương chỉ là sự hư nát của linh hồn!”. Khó có thể tưởng tượng ngay từ thế kỷ 16, khi khoa học chưa lộ diện mặt trái của nó rõ rệt như hiện nay, Rabelais đã có thể đưa ra những lời cảnh báo tiên tri như vậy.
Nhưng dường như hậu thế không đếm xỉa tới lời tiên tri đó. Khi bị chất vấn về tác hại của trò chơi điện tử đối với trẻ em, một ông chủ hãng điện tử Nhật Bản trả lời: “Nó cũng như con dao nhà bếp thôi, có thể rất tiện lợi, mà cũng có thể rất có hại. Con dao không có lỗi. Lỗi là ở người dùng nó”.
Câu trả lời vô trách nhiệm này cũng phơi bày bản chất của khoa học: Khoa học chỉ là một phương tiện, một công cụ, nó không chịu trách nhiệm về nhân tính như Einstein đã nói. Đây chính là đặc điểm nổi bật của nền văn minh vật chất Tây phương.
Nhưng bi kịch thay con người ngày nay lại thỏa mãn với cái vốn hiểu biết khoa học đó, với nền văn minh Tây phương đó, và coi thế là đủ. Đó là thói tự phụ nguy hiểm dẫn tới sự suy thoái văn hoá.
Tạp chí SIGNS of the Times bình luận: “Mối nguy hiểm lớn nhất của tấm huân chương khoa học có lẽ không phải là vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học, sự huỷ hoại môi trường, mà ở chỗ nó mang lại thói tự cao tự đại quá đáng của con người”.
Nhân loại ngày nay cũng đang bối rối đặt câu hỏi: Nền văn minh hiện đại sẽ đưa loài người đi về đâu?
Cái tự phụ vênh vang của một vài cá nhân các vị học giả nào đó có lẽ không đáng nói. Điều đáng nói là thói tự phụ ấy lại biến thành một ý thức hệ của một đám đông, của một tầng lớp có nhiều ảnh hưởng trong xã hội. Nó sẽ trở nên hết sức nguy hiểm. Bởi vì nó dám bất chấp mọi quy luật của tạo hoá, tức là bất chấp Đạo Càn Khôn.
***
Cuối cùng, chỉ muốn được chia sẻ rằng, hai nền văn minh Đông – Tây dẫu rằng có những điểm trái ngược, nhưng không mâu thuẫn, mà bổ sung cho nhau. Đó là vận dụng một nhận định của Niels Bohr, một nhà vật lý thiên tài người Đan Mạch: “Trái ngược không phải là mâu thuẫn, mà chúng bổ sung cho nhau”.
Minh Đăng
Xem thêm:
Tân Thế Kỷ Truyền Thống – Nhân Văn – Trung Thực